9/11:
Israel did it
WikiSpooks: https://wikispooks.com/wiki/9/11:Israel_did_it
9/11: Do Thái là thủ phạm
Kỳ I
** Nội dung chính
của tài liệu nầy lấy từ Information
Underground forum, tháng 5/2009, với tựa đề "Israel
did 9/11 - All the proof in the world". Đây chỉ là
một trong số vài phiên bản khác nhau về đề
tài nầy. Đỉnh Sóng
Khi một biến
cố xảy ra làm thay đổi triệt để động
năng của địa chính trị toàn cầu, có một
câu hỏi trên tất cả những câu hỏi khác mà câu
trả lời hầu như chắc chắn sẽ nêu
đích danh các thủ phạm. Câu hỏi là "Cui bono" (Ai
được lợi?) Nếu những kẻ bị lên án
đồng thời được xem là có cả động
cơ lẫn phương tiện thì ở Hoa Kỳ
người ta nói chắc chắn những kẻ đó là thủ
phạm. Và biến cố 9/11 cũng thế. Những phiên
bản chính thức về biến cố 9/11 hiển nhiên
là vô lý, vì, cho đến nay, chỉ có hai tổ chức trên
toàn thế giới có được kỹ năng,
phương tiện, quyền truy cập và bảo vệ
chính trị cần thiết để vừa thực
hiện vụ 9/11 vừa tiến hành bao che. Hai tổ
chức đó là những Cơ Quan Tình Báo CIA của
Hoa Kỳ và Mossad của Israel - cơ quan nầy
được xem là có những động cơ thôi thúc
nhất. Những động cơ nầy ăn khớp
tuyệt vời với nghị trình của nhóm thảo
thuyết bảo thủ PNAC (Project for the New American Century),
với nhu cầu công khai đặt ra là phải có "một
biến cố thảm khốc, và xúc tác như một tân
Trân Châu Cảng" đẻ động viên dư luận cho
những cuộc chiến tranh đã hoạch định,
với hệ quả là tiêu diệt những kẻ thù
của Do Thái.
Ai kiểm soát Tòa
Tháp Đôi
Bước thứ
nhất để chuẩn bị cho những vụ
tấn công 9/11 là nắm quyền kiểm soát Trung Tâm World
Trade Center (WTC ). Điều nầy là then
chốt vì không nắm được quyền kiểm soát
toàn bộ thì việc gài những chất nổ để
đánh sập toà nhà sẽ gần như bất khả thi
vì rủi ro bị phát hiện rất lớn.
Bốn tay
đầu sỏ trong hệ thống Do Thái
Larry Silverstein Silverstein là một thương gia Mỹ
gốc Do Thái ở New York. Vào ngày 24/7/2001, Silverstein có
được một hợp đồng thuê toàn bộ WTC
99 năm. Hai tòa tháp thực sự gần như chẳng
đáng giá gì vì tràn ngập những amiăng, nhưng
Larry "cảm thấy rất muốn có được
chúng." Silverstein thường ăn điểm tâm ở nhà
hàng Windows on the World (lầu 107, North Tower) mỗi sáng,
nhưng y vắng mặt ở buổi điểm tâm
đó vào buổi sáng 11 tháng 9. Hai người con của Silverstein
cùng làm việc trong Tòa Tháp Đôi cũng quyết
định nghỉ việc hôm đó. Silverstein
được hảng bảo hiểm trả hơn $4.5
tỉ do tòa nhà bị phá hủy. Silverstein rất thân tình
với Rupert Murdoch, một tay trùm truyền thông gốc Do
Thái, với Ariel Sharon, cựu tổng thống Do Thái, cũng
như với Thủ Tướng Do Thái PM Benjamin Netanyahu. Silverstein
thân thiết với Netanyahu đến độ, theo
tờ báo Do Thái Haaretz, y thường nói chuyện
với ông ta qua điện thoại mỗi chủ
nhật.
Frank Lowy Lowy, một người Do Thái sinh ở
Tiệp Khắc, là chủ nhân của Westfield America, một
trong những tổ hợp trung tâm thương mại
lớn nhất thế giới. Lowy đã thuê khu
thương mại trung tâm (Mall) ở WTC , chiếm
khoảng 427,000 feet vuông diện tích bán lẻ của
lầu. Lowy cũng là bạn bè thân thiết với
những viên chức cao cấp Do Thái như Ehud Olmert, Ariel
Sharon, Bibi Netanyahu, và Ehud Barak. Frank Lowy không có mặt tại
Tòa Tháp Đôi ngày 9/11.
Lewis Eisenberg Eisenberg là giám đốc của Port
Authority of New York và đã chấp thuận hợp
đồng thuê phố cho Silverstein và Lowy. Eisenberg là một
người cống hiến tiền quan trọng cho
chiến dịch tranh cử tổng thống của
Bush-Cheney, cũng như là một đối tác trong ngân hàng
Do Thái Goldman-Sachs. Eisenberg từng là một thành viên
của Hội Đồng Planning Board của nhóm áp
lực chính phủ thân Do Thái mệnh danh là United Jewish
Appeal/United Jewish Federation.
Ronald Lauder Trùm tỉ phú mỹ phẩm Estée Lauder là
chủ tịch ủy ban tư hữu hóa của Thống Đốc
New York George Pataki. Y là nhân vật then chốt đứng ra
vận động hành lang để tư hữu hóa WTC
và y cũng đóng vai trò then chốt trong việc tư
hữu hóa căn cứ không quân Stewart Air Force Base. Lạ
thay, đường bay của phi vụ 175 và 11 lại trực
tiếp gặp nhau trên phi trường nầy. Lauder hoạt
động tích cực trong nhiều tổ chức Do Thái và
đã thành lập một trung tâm cho cơ quan tình báo Mossad
ở Herzliya, Do Thái, mang tên Lauder School of Government Diplomacy
and Strategy. Lauder được nghi là tay đầu
sỏ trong kế hoạch 9/11.
An ninh của World
Trade Center trong tay Do Thái
Yếu tố kiểm
soát then chốt thứ nhì là an ninh cho WTC . Yếu
tố nầy cần có để cho phép truy cập vào
những khu vực chiến lược của trung tâm
để đặt chất nổ trong giai đoạn
trước khi xảy ra các cuộc tấn công. Hợp
đồng điều hành an ninh tại WTC được
giao cho Kroll Associates sau vụ đánh bom năm 1993.
Kroll còn có biệt hiệu là "Wallstreet's CIA".
Hợp đồng nầy do cơ quan Port Authority của
New York chấp thuận, và Kroll Associates được
trả $2.5 triệu để tăng cường lại
hệ thống an ninh cho WTC. Chủ nhân của Kroll
Associates là hai tay Do Thái tên là Jules & Jeremy Kroll. Quản
đốc của Kroll Associates lúc bấy giờ là Jerome
Hauer, và tay nầy cũng được chọn để
điều hành cơ quan Office of Emergency Management (OEM)
của Thị Trưởng Guiliani từ 1996 đến
2000. Y là nhân vật chủ chốt đã vận
động để cơ quan nầy được
đặt để trong WTC Building 7 của Silverstein (tòa nhà thứ
ba sẽ bị đánh sập trong vụ 9/11). Jerome Hauer
cũng là người Do Thái và là một tay Zionist sừng
sỏ. Rose Muscatine Hauer, mẹ của Hauer, là chủ
tịch danh dự của phong trào Lập Quốc Israel,
một trong những tổ chức Zionist trung tâm dính líu
trong việc thành lập và hỗ trợ Nhà Nước
Israel. Chính Jerome Hauer là người đã khuyến cáo Tòa
Bạch Ốc xử dụng "CIPRO," một loại
kháng sinh chống Anthrax một tuần lễ
trước vụ tấn công Anthrax qua bưu
điện. Hauer là một "chuyên viên" về khủng bố
sinh học (Bio-Terrorism), nhưng phản ứng của y trong
vụ tấn công Anthrax qua bưu điện lại
chậm chạp, và y lợi dụng thời cơ
để nhắc đi nhắc lại điệp khúc "Osama
Bin Laden."
Ai giết John O'Neil?
John O'Neil, một cựu
đặc vụ FBI, trước kia tình cờ lại
được giao nhiệm vụ điều tra Bin Laden,
và nay được Jerome Hauer thuê làm giám đốc an ninh
tại WTC. Quả là ngoạn mục khi ONeil lại
bị giết ngay trong ngày làm việc đầu tiên
của ông tại WTC 9/11. Điều quan trọng
cần ghi nhớ là ONeil đã nghĩ việc ở FBI sau khi
cuộc điều tra của ông về vụ tấn công khu
trục hạm U.S.S. Cole bị Đại Sứ
Mỹ gốc Do Thái ở Yemen là Barbara Bodine cản trở
và phá hoại. Lý do là vì vụ tấn công đó có thể
không do Al Qaeda thực hiện. Khu trục hạm
nầy bị hỏa tiễn Do Thái bắn để chuyển
hướng dư luận chống lại người
Ả Rập (Al Qaeda), cũng như để trả
đũa đảng Dân Chủ đã không xem trọng những
đe dọa khủng bố. Kết qua là một George Bush
Jr. được phóng lên tổng thống kịp lúc cho
vụ 9/11. Tất cả kịch bản nầy
được chôn vùi trong khối hỏa mù quan liêu
phức tạp.
An ninh phi
trường trong tay Do Thái
Yếu tố kiểm
soát thứ ba cần được thiết lập là
yếu tố an ninh tại tất cả những phi
trường từ đó những phi vụ không tặc
sẽ xuất phát. Công tác rà soát hành khách cần phải
được đảm trách bởi những nhân viên
được điều khiển để cho phép
một số người hay vật dụng nào đó
(như vũ khí, chẳng hạn) được lên máy bay.
Công ty phụ trách an ninh phi trường tại ba phi
trường xảy ra những vụ mệnh danh là không
tặc là Huntsleigh USA, một chi nhánh của ICTS
International và do Ezra Harel và Menachem Atzmon làm chủ - cả
hai đều là Do Thái. Công ty nầy được
điều hành bởi những "chuyên viên" trong lãnh vực
an ninh và tình báo nghĩa là tình báo Do Thái. Đa số nhân
viên đều thuộc phong trào Lập Quốc Do Thái (Zionism).
Thật khó tin khi công ty an ninh nầy vốn phụ trách an
ninh tại cả hai phi trường Boston Logan và Newark lại
"lơ là" đến nỗi cho phép 19 người Ả
Rập lên 4 phi cơ khác nhau với những dụng cụ
rạch thùng, gậy, và thậm chí một cây súng nữa.
Menachem Atzmon, nguyên
thủ quỹ của đảng Likud trong thập niên 80,
đã dính dáng trong một tai tiếng chính trị Do Thái, cùng
với Ehud Olmert và những đảng viên Likud khác. Y
bị kết án gian lận, giả mạo giấy tờ,
và vi phạm luật Party Funding Law.
Công ty ICTS International
cũng phụ trách an ninh phi trường khi tên mang bom trong
giày (shoe bomber) Richard Reid lên một phi cơ với cái
được nói là một quả bom trong giày. Nếu Reid
thực sự là một tên khủng bố thay vì một con
mòng của Mossad, thì lý ra ICTS đã không để
hắn lên máy bay. Một điểm nữa cho thấy
sự đồng lõa của ICTS: một vài tiếng
trước khi Dự Luật Patriot Act
được bỏ phiếu thành luật, nó
được sửa đổi để giúp những
công ty ngoại quốc phụ trách an ninh trong vụ 9/11
được miễn tố. Điều nầy ngăn
chặn những tòa án Hoa Kỳ không được đòi
hỏi ICTS ra làm chứng hay trao những băng ghi hình
an ninh từ các phi trường.
Umar Farouk Abdulmutallab (được
mệnh danh là "Underwear Bomber") là một người
Đạo Hồi ở Nigeria và được nói là
một tên khủng bố đã toan châm ngòi những
chất nổ giấu trong quần lót khi đang trên chuyến
bay Northwest Airlines Flight 253 từ Amsterdam đến
Detroit, Michigan, vào ngày Giáng Sinh 25/12/2009. Abdulmutallab đã lên
phi cơ đến Mỹ từ phi trường Schiphol
Airport ở Amsterdam. Kurt Haskell, một luật sư ở
Michigan, cũng đáp cùng chuyến bay đó và nhớ đã
nhìn thấy Abdulmutallab và một người đàn ông trông
giống người Ấn Độ ăn mặc
bảnh bao đã giúp Abdulmutallab lên máy bay. Haskell nói rằng
Abdulmutallab đã lên máy bay mà không có thông hành. An ninh tại phi
trường Schiphol Airport cũng do công ty Do Thái ICTS International
đảm trách.
Biết
trước
Vào tháng 10/2000,
khoảng 11 tháng trước khi xảy ra vụ 9/11,
một sỹ quan Phòng Không Do Thái về hưu và một
cựu chiến binh của trận Yom Kippur War (1973), đi
thu thập những cành thường xuân Anh (English Ivy
Cuttings) tại nghĩa trang Gomel Chesed Cemetery ở McClellan
và 245 Mount Olive Avenue, gần ranh giới thành phố Elizabeth
và Newark, New Jersey. Gomel Chesed Cemetery là một nghĩa
trang Do Thái. Câu chuyện giữa họ và một
người thứ ba đến từ một chiếc xe Lincoln
đã có người nghe lỏm được:
- "The Americans will learn
what it is to live with terrorists after the planes hit the twins in September."
(Người Mỹ sẽ biết thế nào là sồng
với bọn khủng bố sau khi những máy bay đánh
vào tháp đôi vào tháng Chín).
- "Dont worry, we have
people in high places and no matter who gets elected, they will take care of
everything." (Đừng lo, chúng ta có những
người trên chóp bu và bất luận ái đắc
cử đi nữa thì họ cũng sẽ lo hết
mọi chuyện).
Người nghe
được câu chuyện trên đã thuật lại cho FBI
nhiều lần chỉ để bị làm ngơ mỗi
lần như thế.
Các công dân Do Thái
được báo trước
Odigo, một công ty instant messaging (hội
thoại trực tuyến) của Do Thái, thú nhận rằng,
hai tiếng trước khi chiếc máy bay đầu tiên đâm
vào WTC, hai nhân viên của họ đã nhận
được những cảnh báo về một vụ
tấn công sắp xảy ra. Cảnh báo nầy đã không
được chuyển đến các cơ quan hữu
trách. Odigo có một qui định trong những
dịch vụ của họ cho phép chuyển tiếp
những nội dung hội thoại qua một hệ tìm dựa
trên quốc tịch. Nếu hai người Do Thái nào đó
được cảnh báo thì có thể hai người
nầy đã chuyển tiếp cảnh báo đó đến
những người Do Thái khác. Có thể là như thế
nếu xét rằng, trong số 4000 người Do Thái
được nghĩ đã làm việc trong hay chung quanh WTC
và Pentagon, chỉ có 5 (năm) người chết
5/4000 người Do Thái. Theo thống kê, nếu không
được cảnh báo, thì khoảng 10% có thể đã
chết (nghĩa là 400/4000). Nhưng chỉ có 5 người
Do Thái chết và 2 trong số 5 người đó đang bay
trên những chuyến bay được nói là bị không
tặc! Như thể chỉ có 3 người Do Thái
chết tại chính trung tâm WTC
vào ngày 9/11 một con
số thống kê đầy ngạc nhiên! Con số đó
chỉ áp dụng cho những người dân Do Thái (Israeli
nationals), chứ không phải những người Mỹ
gốc Do Thái (American Jews) số người nầy
chết khá nhiều tại WTC trong vụ 9/11. Odigo
có những văn phòng tại New York, và ở Herzliya,
thuộc Israel. Herzliya cũng là địa bàn của
những tổng hành dinh Mossad.
Những cảnh báo
khác
Vào ngày Sep 10, 2001, chi
nhánh Tokyo của Goldman Sachs cảnh báo những nhân viên
Mỹ của họ nên lánh xa những buildings Mỹ. ZIM,
một công ty Do Thái, đã di tản khỏi văn phòng
của họ (10,000 square feet) trên tháp North WTC một
tuần trước biến cố 9/11, bỏ ngang hợp
đồng thuê phố. 49% của công ty nầy do chính
phủ Israel sở hữu. Hợp đồng thuê phố
đến cuối năm 2001 mới mãn, và công ty nầy
phải chịu phạt $50,000 vì chấm dứt sớm.
Sau nầy, Michael Dick,
một nhân viên FBI, người bấy giờ đang
điều tra việc gián điệp của Israel
trước và sau vụ 9/11 và theo dõi những động
thái đáng nghi ngờ, đã bị Michael Chertoff cách
chức tay nầy bấy giờ là giám đốc cơ
quan hành sự Bộ Tư Pháp, và là một tay hỗ
trợ đắc lực cho chủ nghĩa Zionism
(Lập Quốc Do Thái). Theo nguồn tin của một nhân
viên chìm CIA từng làm việc bên cạnh Dick, những
"dọn nhà Do Thái (Israeli movers)" đã đưa chất
nổ vào khi ZIM di tản ra. Như thế chỉ còn
một công ty Do Thái trong WTC là Clearforest với 19
nhân viên vào ngày 9/11, nhưng thực sự chỉ có 5 nhân
viên có mặt trong tòa nhà hôm đó và tất cả 5 người
nầy đều thoát được cả.
Những móc nối
của cơ quan tình báo Mossad
Năm 2001, một
trung tâm nghiên cứu ưu tú của Quân Đội Hoa Kỳ
đã thiết kế một kế hoạch nhằm
thực thi một hòa ước quan trọng giữa DoThái
Palestine, một kế hoạch đòi hỏi khoảng
20,000 binh sỹ được trang bị tối tân
đồn trú khắp Israel và nhà nước Palestine mới
thành lập. Người ta tiên liệu những biến
cố trong năm đầu tiên của hoạt
động bảo vệ hòa ước, và nhìn thấy
những hiểm họa đối với những binh
sỹ Hoa Kỳ đến từ cả hai bên. Khi nói
về Mossad, cơ quan tình báo Do Thái, các sỹ quan Quân
Đội Hoa Kỳ nhận xét: "Wildcard. Ruthless and
cunning. Has capability to target U.S. forces and make it look like a
Palestinian/Arab act." (Khó lường. Tàn nhẫn và
xảo quyệt. Có khả năng nhắm vào lực
lượng Hoa Kỳ và xem đó như là một hành
động Palestine/Ả Rập). Điều ngạc
nhiên là nhận xét trên được tường thuật
lại trên tờ Washington Post vào ngày September 10, 2001.
Gián điệp Do
Thái quanh vụ 9/11
Trước vụ
9/11 không bao lâu, hơn 140 người Do Thái đã bị
bắt vì bị tình nghi gián điệp. Một số trong
bọn họ đóng vai những sinh viên nghệ thuật.
Những nghi can nầy nhắm vào và thâm nhập những
căn cứ quân sự, DEA, FBI, Secret Service, ATF, U.S.
Customs, IRS, INS, EPA, Interior Dept., U.S. Marshals Service, US Attorneys
Offices, những văn phòng bí mật của chính phủ,
những tư gia không niêm yết của các viên chức công
lực và tình báo. Hầu hết những nghi can đều
phục vụ trong ngành tình báo quân sự Do Thái, trong
những đơn vị chặn sóng thám sát điện
tử hay những đơn vị cài đặt chất
nổ. Hàng chục tên Do Thái bị bắt trong những
quày (kiosks) của các trung tâm thương mại Hoa Kỳ
giả bán đồ chơi để làm bình phong cho các
hoạt động gián điệp. 60 nghi can bị bắt
đã làm việc cho công ty Do Thái AMDOCS chuyên cung cấp
hầu hết những dịch vụ điện thoại
qua hổ trợ thư mục (directory assistance calls) và
hầu hết những hồ sơ gọi (call records) và
dịch vụ hóa đơn cho Hoa Kỳ thông qua những
hợp đồng được ký với 25 công ty
điện thoại lớn nhất Hoa Kỳ. Tất
cả những tên mệnh danh là không tặc 9/11 đều
có căn cước giả. Trong một cuộc hành quân
hỗn hợp FBI-CIA nhắm vào tên không tặc đầu
sỏ Mohammad Atta ở căn cứ Fort Lee, NJ, năm 2001, cuộc
hành quân nầy bị những nhân viên Do Thái chụp hình và
do đó đã thất bại. Những tên Do Thái nầy
được xem như đã tìm cách bao che những toán
không tặc tương lai.
Sau vụ 9/11, hơn
60 tên Do Thái đã bị bắt dựa trên Đạo
Luật Patriot anti-Terrorism Act hay vì vi phạm nhập
cảnh. Một số trong bọn họ là lính hiện
dịch Do Thái. Một số bị hỏng trắc
nghiệm nói dối khi bị thẩm vấn về
những hoạt động thám sát chống Hoa Kỳ.
Một số được xác định đã gián
điệp chống người Ả Rập. Trong số
90 tên Do Thái bị bắt có một nhóm năm tên, nay
được nhiều người biết đến
như là những "dancing Israelis," bị
nhận điện tại nhiều địa điểm
đang quay phim và reo mừng những cuộc tấn công. Những
tên nầy bị cảnh sát New York bắt. Những nhân viên
cảnh sát và FBI bắt đầu nghi ngờ khi họ tìm
thấy những bản đồ của thành phố với
một số địa điểm được tô
nổi, những dao rạch thùng (những thứ mà các tay
không tặc được nói đã xử dụng), $47,000
tiền mặt độn trong một bít tất, và
những thông hành ngoại quốc. Cảnh sát cũng nói
với một tờ báo địa phương ở New
Jersey, những con chó đánh hơi bom đã được
đưa đến chiếc xe van và chúng phản
ứng giống như đánh hơi được
chất nổ. Về sau, FBI xác định rằng ít
nhất hai trong số 5 tên Do Thái nêu trên là những nhân viên
của Mossad. Năm tên đó là Sivan, Paul Kurzberg, Yaron
Schmuel, Oded Ellner, và Omer Marmari.
Xe bom trực
chỉ cầu George Washington Bridge
Tờ Jerusalem Post
về sau tường thuật rằng một xe van
trắng bị chặn lại khi nó đến gần
cầu George Washington Bridge, nhưng
quốc tịch của những nghi can không được
tiết lộ. Nội dung bản tường thuật: "Các
cơ quan an ninh Hoa Kỳ trong đêm đã chặn một
xe bom trên cầu George Washington
Bridge. Chiếc xe van, có chứa thuốc nổ, bị
chặn lại trước đầu cầu. Nhà chức
trách tình nghi bọn khủng bố dự định cho
nổ đoạn giao thông giữa New Jersey và New York. Đoạn băng truyền tin của
cảnh sát cho thấy rằng hai nghi can trong chiếc xe
bắt đầu bỏ chạy khi xe bị chặn
lại và ngay sau đó bị bắt với một số
chống cự nào đó. Một trong những biến
cố lạ lùng hơn của ngày đến dưới
hình thức một chiếc xe van trắng bí ẩn
đậu cách WTC vài lốc đường, trên
đường 6th và King Street, có một bích
họa (mural) bên hông vẽ hình một chiếc phản
lực đâm vào tòa tháp đôi và nổ tung. Tất cả
những chiếc xe van trắng (white vans) đều
thuộc về công ty "Urban Moving Systems" do Dominic
Suter làm giám đốc, một điệp viên Do Thái; tên
nầy lập tức bay trở lại Israel sau vụ
tấn công. Hai cựu viên chức CIA xác nhận
rằng công ty Do Thái nầy là một bình phong cho Mossad.
Hai viên chức nầy ghi nhận rằng những xe
dọn nhà là một một bình phong tình báo thông
thường. Những tên Do Thái bị câu lưu 71 ngày
trước khi được Michael Chertoff lặng lẽ
phóng thích tay nầy là một thành viên của phong trào
lập quốc Do Thái và là giám đốc cơ quan hành
sự thuộc Bộ Tư Pháp thời đó.
Tình báo Do Thái và P-Tech,
công ty nhu liệu Do Thái
Những hệ
thống nhu liệu P-Tech là cửa hậu đột
nhập máy tính. Hầu hết những hệ thống vi
tính nào có thể liên quan đến quyết định cho
cất cánh những phản lực cơ chiến
đấu vào ngày 9/11
đều xử dụng nhu
liệu P-Tech. Danh sách khách hàng của P-Tech bao gồm FAA
(Cơ Quan Quản Trị Hàng Không Liên Bang), N.A.T.O (Tổ
chức Minh Ước Bắc Đại Tây Dương),
United States Armed Forces (Quân Đội Mỹ), Congress (Quốc
Hội HK), Dept. Of Energy (Bô Năng Lượng), Dept. of
Justice (Bô Tư Pháp), FBI (Cơ Quan Điều Tra Liên Bang),
Customs (Thuế Quan), the IRS (Sở Thuế), the Secret Service
(Sở Mật Vụ), và ngay cả Tòa Bạch Ốc.
Michael S. Goff, một Zionist,
là quản đốc tiếp thị của P-Tech và cũng
đã làm việc cho công ty cơ sở dữ liệu Do
Thái, Guardium (Amit Yoran làm giám đốc). Công ty nầy
nhận tài trợ của Cedar Fund, Veritas Venture Partners, và
StageOne, tất cả đều là những công cụ
tài trợ cho Mossad. Do đó, với P-Tech, những
gì người Mỹ có, khi cần, cũng chỉ là
một điệp viên Mossad mang quốc tịch
Mỹ (American "sayan") tức Michael S. Goff, với
những nhân viên Mossad cung cấp thông tin và chỉ huy
trong khi y làm việc với những "đối tác" Hồi
Giáo người Leban của y ở P-Tech.
Tại sao một
luật sư Mỹ trẻ đang làm việc cho một xí
nghiệp luật danh tiếng (Sedar & Chandler) tại
tỉnh nhà của y bỗng nhiên bỏ nghề luật
để làm việc cho một công ty nhu liệu tầm
thường mới ra nghề do một người Leban
và một người Saudi sở hữu và tài trợ? Gia
đình của Goff là một gia đình khả kính và
tiếng tăm ở Worcester, Mass. Y có vị thế
vững vàng tại một xí nghiệp luật danh tiếng
sau khi ra trường luật. Với Goff, nhu liệu P-Tech
được cấy khuẩn trapdoors (cửa
hậu) and Trojan Horses (ngựa gỗ) được
bán ra và tải lên hầu hết những hệ thống vi
tính nhạy cảm. Cùng những hệ thống đó, nhưng
vào ngày 9/11/2011, chúng đã thất bại thê thảm hay
hoạt động hữu hiệu là tùy theo quan
điểm của bạn.
Tập đoàn nhu
liệu vi tính MITRE
MITRE là một tổ chức hợp
đồng quốc phòng đứng đầu là cựu
Giám Đốc Trung Ương Tình Báo James Schlesinger.
Người ta nói Schlesinger là một tín đồ Luther
sùng đạo, nhưng biên dạng Wikipedia cho thấy bố
mẹ của y là người Nga/Áo gốc Do Thái và do đó
chắc chắn y là một Zionist. P-Tech, cùng
với
tập đoàn MITRE, đã chiếm tầng
trệt của FAA trong hai năm trước vụ
9/11. Công việc đặc biệt của họ là tìm
hiểu những vấn đề tương tác giữa FAA,
NORAD và Không Quân HK trong trường hợp khẩn
cấp.
Phi cơ
điều khiển tự động
Phi cơ đầu
tiên đâm vào WTC (North Tower) và đánh trúng phòng máy
điện toán của công ty Marsh & McClennan vừa
mới thuê Kroll Associates để phụ trách về an
ninh. Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng những phi
cơ đâm vào WTC đều được
điều khiển chính xác bằng remote control. Mặc
dù nghe có vẻ như khoa học giả tưởng,
kỹ thuật remote control cho phi cơ đã có từ
nhiều thập niên. Tập đoàn SPC Corporation đã
cung ứng hệ thống flight termination system (Chấm
dứt phi vụ bằng remote control) và hệ
thống command transmitter system (hẹ thống
điều khiển viễn liên), một kỹ thuật
cho phép phi cơ được điều khiển
viễn liên trong trường hợp phi công mất khả
năng hay phi cơ bị không tặc. Rabbi
Dov Zakheim, một công dân Mỹ gốc Do Thái, là giám
đốc của công ty Systems Planning Corporation và là Thứ
Trưởng Quốc Phòng được bổ nhiệm
từ 2001 đến 2004 dưới thời George W.
Bush. Zakheim là người chịu trách nhiệm về
sự biến mất của $2.6 TRILLION khỏi những
sổ sách của Pentagon. Câu chuyện nầy bị chôn vùi
dưới đống gạch vụn của vụ 9/11.
Đặc khu của Pentagon bị "đánh trúng" hay "nổ
tung" có chứa thông tin ngân sách của nhiều năm,
cũng như những nhân viên kế toán, lưu trữ
hồ sơ nhiều người trong số họ đã
chết trong vụ 9/11. Vào tháng 5/2001, khi Zakheim phục
vụ tại Pentagon, chính Tridata Corporation, một chi
nhành của công ty SPS của y, giám sát cuộc
điều tra về đợt tấn công "khủng
bố" đầu tiên vào WTC trong năm 1993. Cơ
hội nầy có lẽ đã giúp họ hiểu biết
cặn kẻ những hệ thống an ninh và những
thiết kế của WTC. Theo trang web SPC,
một khách hàng mới nhất thời đó là căn
cứ không quân Eglin AFB ở Florida. Eglin rất
gần với một căn cứ không quân khác ở Florida
tức căn cứ MacDill AFB, nơi mà Dov Zakheim
đã hợp đồng để gởi ít nhất 32
chiếc Boeing 767, như một phần của
hợp đồng thuê mướn phi cơ giữa
hảng Boeing và Pentagon. Căn cứ trên quyền
được truy cập vào những phi cơ Boeing,
những hệ thống điều khiển viễn liên,
và những quan điểm công khai của y trong tài liệu PNAC,
rất có thể y thực sự là một khuôn mặt
chủ chốt trong những vụ tấn công 9/11.
Quân Đội Hoa
Kỳ biết Israel đã làm chuyện đó
Theo Dr. Alan Sabrosky, cựu
Giám Đốc Nghiên Cứu tại Đại Học
Chiến Tranh của Quân Đội HK, "Với tư cách
một phân tính gia chiến lược, tôi tuyệt
đối tin rằng vụ 9/11, từ đâu đến
cuối, là một hoạt động cổ điển do
Mossad đạo diễn. Nhưng Mossad không hành động
một mình
" Ông nói tiếp, "Bin Laden phủ nhận
trách nhiệm, do đó nói rằng, mặc dù y cám ơn Allah vì
những cuộc tấn công đã xảy ra, nhưng y không
làm chuyện đó, nhưng Hoa Kỳ đòi hỏi Afghanistan
do Taliban cai trị phải giao nạp y cho Hoa Kỳ. Taliban
trả lời rất hợp lý: Hãy cho chúng tôi bằng
chứng và chúng tôi sẽ giải giao ông ta cho các ông. Nhưng
HK phớt lờ và tấn công. Tại sao? Tại vì họ
không có bằng chứng thuyết phục, và sẽ không bao
giờ có ngay cả vào đêm trước cái chết công
khai của Bin Laden năm 2011, FBI cũng không đề
cập gì đến 9/11 trên bố cáo Most Wanted liên quan
đến y trên Internet."
Xin xem tiếp phần II