TRANG CHÍNH TRỊ/KINH TẾ

ĐIỂM SÁCH * "Nghịch Lý Trump" * "Vụ kiện dân sự New York" * Nếu Ô. Donald Trump thắng c "Tối Cao Pháp Viện:" Nghi Án hay Huyền Thoại? * uộc 2024? * RAND REPORT * Ukraine và các tập đoàn cá mập I * Ukraine và các tập đoàn cá mập II * Ukraine và các tập đoàn cá mập III * Karl Marx & Sully Proudhome - PPC * Chủ Nghĩa Lưu Manh * Bản Tự Khai Donald Trump * Do Thái và Huyền Thoại Trân Châu Cảng * Do Thái và Huyền Thoại 9/11 * Tiền Ảo - Digital Money * Sheldon Adelson và Donald Trump * Hồ Sơ Thuế của TT Trump * Hiện Tượng QAnon * Bill Gates và Covid-19 * Covid-19 và những góc tối kịch bản * Truất Phế: Âm mưu của Do Thái * Chủ Nghĩa Lưu Manh * Bản Cáo Trạng Tham Ô của Trump * Israel và âm mưu Lavon Affair * Israel và vụ tàu USS Liberty * Israel và Chính Trị Hoa Kỳ * Do Thái và Thảm Họa FUKUSHIMA * Bên lề Bầu Cử 2016 IV * Hiện Tượng Đạt Lai Lạt Ma II * Hiện Tượng Đạt Lai Lạt Ma I * Bên lề Bầu Cử 2016 III * Bên lề Bầu Cử 2016 II * Bên lề Bầu Cử 2016 * Bức Tranh Toàn Cảnh * Do Thái và Thao Túng Xã Hội * Nghi án chiến Tranh Việt Nam * Biển Đông và Mưu đồ DoThái-TrungQuốc * Chan tướng Chương Trình Fulbright * Điện tín đàu hàng vô điều kiện * Chân tướng TT Đức Angela Markel * Chủ nghĩa Cộng Sản trá hình * Bilderberg Group, Rockefeller, và Cộng Sản * Âm Mưu của Dòng Họ Rothschild và Rockefeller * Sự thật về vụ đánh bom ở Oklahoma City 1995 * Sự thật về ISIS - III * Illuminati và Tam Điểm * Chân tướng Tổng Thống Mỹ: Bill Clinton * Chân tướng Tổng Thống Mỹ: Harry Truman * Chân tướng Tổng Thống Mỹ: Woodwow Wilson * Chân tướng Cộng Sản của John Kerry * Do thái cai trị Hoa Kỳ * Cấu kết giữa Do Thái và Đức Quốc Xã * Vatican và vấn đề cải cách * Waco: tự tử tập thể hay thảm sát tập thể? * Phương trình Bill Gates * Benghazi: sự thật bị ém nhẹm * Hệ thống siêu quyền lực Illuminati * Quần Đảo GULAG và tội ác Do Thái * Hiện tượng Donald Trump - I * Ai giết John F. Kennedy? - I * Ai giết John F. Kennedy? - II * Sự thật về Bản Tuyên Ngôn Cộng sản * Sự thật về ISIS - I * Sự thật về ISIS - II * Killing America * Do Thái và đàn áp tự do ngôn luận * Xã hội Do Thái hóa * Chủ Nghĩa Độc Tài Mềm * Kịch bản Sống chung Hòa bình Mỹ, Nga, Tàu * Bầu cử và quảng cáo TV * Chân tướng Quỹ Dự Trữ Liên Bang: Do Thái * Rockefellers, vua dầu hỏa thế giới * Rockefellers và âm mưu thống trị thế giới * Ai tấn công Charlie Hebdo? * Do Thái kiểm soát 96% truyền thông thế giới * Do Thái và Trung Quốc * Những trùm Cộng Sản Do Thái * Obama: Tổng Thống Do Thái đầu tiên của Mỹ * Cội nguồn Do Thái của John Kerry * Tam Giác Quỷ Mỹ+Tàu+DoThái * Con Bạch Tuộc Do Thái * 9/11: Do Thái là thủ phạm * Nghi Án Miến Điện và Bắc Hàn * Xã Hội Đen *
Dinh Song

Âm Nhạc
* Triết Nhạc Hải Đăng I
* Triết Nhạc Hải Đăng II
* Triết Nhạc Hải Đăng III
* Triết Nhạc Hải Đăng IV
Khoa Học Điện Toán
* Từ Điển Tin Học
Triết Học
* Triết Học, Khoa Học, và Tiến Hóa
Truyện Ngắn Đông Yên
* The Sun Hunters (Người đi săn mặt trời)
* Câu Chuyện một Dòng Sông
* Hẹn Nhau trươc Giao Thừa
* Ngôi Sao Đen
Thơ Đông Yên
* Loài Chim Du Mục
Thơ dịch
* Thí Ca Lãng Mạn Pháp
* Tuyển Tập Thi Ca Anh Mỹ
* Robert Frost Tuyển Tập I
* Emily Dickinson Truyển Tập I
Không Phát Hành
* Edgar Allan Poe Thơ Tuyển Tập
* Edgar Allan Poe Truyện Ngắn Tuyển Tập I
* Edgar Allan Poe Truyện Ngắn Tuyển Tập II
* Edgar Allan Poe Truyện Ngắn Tuyển Tập III
* Edgar Allan Poe Truyện Ngắn Tuyển Tập IV
* Edgar Allan Poe Truyện Ngắn Tuyển Tập V
* Thi Ca Tuyển Tập Anh Mỹ - 2nd Edition
* Robert Frost Tuyển Tập - 2nd Edition
* Emily Dickinson Tuyển Tập - 2nd Edition
Truyện Dịch Song Ngữ
* Truyện Ngắn Song Ngữ I
* Truyện Ngắn Song Ngữ II
Vũ Trụ Học
* Cuộc Chiến Hố Đen
* Thiết Kế Vĩ Đại
* Vũ Trụ từ Hư Không
* Lai Lịch Thời Gian
Đĩa Bay & Người Hành Tinh
* Đĩa Bay và Người Hành Tinh I
* Đĩa Bay và Người Hành Tinh II
* Đĩa Bay và Người Hành Tinh III
* Đĩa Bay và Người Hành Tinh IV
* Đĩa Bay và Người Hành Tinh V
* Đĩa Bay và Người Hành Tinh VI
* Đĩa Bay và Người Hành Tinh VII
Oklahoma City Bombing
Bilderberg Group, Rockefeller, và Cộng Sản

Primary References:
- Robert Sr. Gates: The Conspiracy That Will Not Die: How the Rothschild Cabal Is Driving America into One World Government
- Daniel Ustulin: The True Story of the Bilderberg Group
- Nolan J. Reynolds: Bilderberg: Ultimate control
- James Jackson: The World’s Most Dangerous Secret Societies


1. Dòng họ Rothschild và dòng họ Rockefeller

Muốn hiểu quyền năng của tập đoàn tài phiệt thế giới hoạt động ra sao, người ta phải tìm hiểu lịch sử của dòng họ Rockefeller ở Hoa Kỳ. Từ nhiều năm trước đây, một huyền thoại được bắt đầu trong những hội quán bảo thủ Mỹ, được phát tán hữu hiệu bởi những tác nhân nhị trùng tích cực. Huyền thoại nầy đã tìm được rất nhiều người nhiệt tình tin theo, vì nó cho thấy một "sự rạn nứt" mỗi ngày một lớn trong giai cấp quyền quý đang đàn áp các dân tộc trên thế giới. "Mặc khải" mới nầy cho biết rằng một cuộc tử chiến tranh dành quyền lực thế giới đã phát triển giữa dòng họ Rockefeller và Rothschild. Theo đà phát triển đáng kinh ngạc nầy, phe nầy hay phe kia, tùy theo bạn đang nghe tác nhân nào nói, đã nắm quyền kiểm soát Liên Xô và sẽ xử dụng quyền lực của mình như là căn bản để hoàn thành kế hoạch lật đổ phe kia. Cái chết bất ngờ của một số thành viên trong gia đình Rockefeller được trưng ra như là bằng chứng cho thấy một cuộc chiến như thế đang xảy ra, mặc dù không có một ai trong dòng họ Rothschild chết trong "cuộc chiến." Phiên bản nầy không nhắc đến sự kiện rất phổ quát là Nelson Rockefeller được biết đã "bị loại" do mất hết những phiếu ký thác trị giá vài triệu dollars ma túy lấy từ tổ chức ma túy Columbia hoặc sự kiện những cái chết khác trong gia đình Rockefeller không cho thấy một dính líu gì với Rothschild.
Một số người hiểu biết không thể tin rằng bất kỳ ai cũng có thể bị lừa để nghĩ rằng dòng họ Rockefeller hiện đang cố cướp quyền của dòng họ Rothschild, vào một thời điểm mà ảnh hưởng của các thành viên trong gia đình Rockefeller đã suy giảm; tài chánh gia đình của họ được J. Richardson Dilworth quản lý; các vấn đề pháp lý của họ được John J. McCloy và những luật sư tín cẩn khác phụ trách; không một luật sư nào trong số nầy muốn dính líu đến một cuộc chiến tranh quyền đích thực, vì họ là những quản đốc vô danh chỉ sống bằng những chi phiếu hàng tuần. Họ không có tham vọng riêng nào cả. Tuy nhiên, nhiều người Mỹ hảo huyền vẫn bám lấy ý tưởng cho rằng dòng họ Rockefeller là những "người Mỹ tốt" sẵn sàng liều tất cả để đánh đổ dòng họ Rothschild. Lạ thay, phiên bản tai hại đó đã kéo dài gần một thập niên trước khi bị đẫy vào kho hoang đường của lịch sử.

2. Điểm mặt dòng họ Rockefeller

Cũng như J.P. Morgan, John D. Rockefeller bắt đầu sự nghiệp thương mại của y bằng cách bán cho Quân Đội Mỹ một số súng thiếu tiêu chuẩn, nghĩa là y là một tay trục lợi chiến tranh trong Đệ Nhị Thế Chiến. Y đã bán rượu Harkness không đóng dấu cho Quân Đội Liên Bang với lợi nhuận cao, kiếm được số vốn ban đầu để thực hiện âm mưu độc quyền. Quan tâm của y đối với nghề buôn dầu đá là một điều tự nhiên, vì William Rockefeller, bố của y, đã ở trong nghề dầu đá từ nhiều năm. William Rockefeller đã trở nên một doanh gia về dầu đá sau khi những giếng muối ở Tarentum, gần Pittsburgh, được phát hiện phun dầu đá vào năm 1842. Samuel L. Kier, chủ nhân của các giếng dầu đá, bắt đầu vô chai dầu đá và bán ra để làm thuốc. Một trong những người mua sỉ đầu tiên của ông là William Rockefeller. "Thuốc" nầy ban đầu mang nhãn hiệu "Kier Magic Oil." Sau đó Rockefeller in nhãn riêng với tên "Rock Oil" hay "Seneca Oil" - Seneca là tên của một bộ lạc Da Đỏ nổi tiếng. Thành quả khét tiếng nhất và lợi nhuận lớn nhất của Rockefeller là nhờ y tự quảng cáo với dòng chữ William Rockefeller, the Celebrated Cancer Specialist. Cũng dễ hiểu khi các cháu nội của y trở thành những thế lực ở hậu trường nắm quyền kiểm soát trung tâm điều trị ung thư nổi tiếng nhất thế giới và trút những khoản tài trợ của chính phủ và cống hiến từ thiện sang những khu vực chỉ làm lợi cho tập đoàn Medical Monopoly.
Cả đời William Rockefeller chẳng bao giờ ngưng khoác lác về sự hào nhoáng của y. Y bảo đảm "Tất cả những trường hợp ung thư đề được chửa lành trừ phi để quá lâu." Hiệu năng trị liệu mà y quy cho phương pháp điều trị của được thổi phồng đến độ y có thể bán "thuốc" với giá lẻ $25 mỗi chai, một số tiền bấy giờ tương đương với hai tháng lương trung bình. "Bài thuốc" gồm có một ít chất lợi tiểu quen thuộc hòa với nước. Có lẽ tay bán thuốc Sơn Đông nầy cũng không ngờ được rằng con cháu của y lại có thể kiểm soát cái tập đoàn độc quyền Medical Monopoly lớn nhất và thu lợi nhiều nhất trong lịch sử nhân loại.
Như một tay bán thuốc dạo, William Rockefeller đã chọn một nghề mâu thuẫn với việc phát triển một gia đình ổn định. John, đứa con trai của y, ít khi thấy mặt y, một hoàn cảnh đã khiến một số phân tích gia tâm lý nghiệm đoán rằng sự vắng mặt người cha hay tình phụ tử có thể là nguyên nhân khiến D. Rockefeller trở thành một tên độc tài điên tiền chuyên mưu toan làm tê liệt, hạ độc và giết chết hàng triệu đồng bào người Mỹ của y gần một thế kỷ hoạt động độc quyền với những hậu quả kéo dài từ đời nầy sang đời khác, dã man và độc ác nhất trong đời sống Hoa Kỳ. Đó có thể là một trong những yếu tố then chốt – tuy nhiên, cũng có thể chính y là ác quỷ thực sự.
Dân gian thường nói rằng bạn có thể tìm thấy một hay hai tên trộm ngựa trong bất kỳ gia đình trưởng giả nào ở Hoa Kỳ. Trong gia đình Rockefeller, đó không hẳn là một câu chuyên dân gian nhảm nhí. William dường như đã suốt đời tận trung với những giáo điều của Chúc Thư Will of Canaan: Love one another, love robbery, love lewdness, hate your masters, and do not speak the truth. Y đã lẫn trốn nhiều cáo buộc về tội trộm ngựa, và cuối cùng biến mất rồi xuất hiện trở lại và cải danh thành Dr. William Levingston of Philadelphia, cái tên mà y giữ lại cho đến cuối đời. Một nhà báo điều tra cho tờ New York World của Joseph Pulitzer lúc đó nhận được một mách bảo và tờ báo nầy phát hiện ra rằng William Avery Rockefeller đã chết ngày 11/5/1906 ở Freeport, Illinois, và được chôn trong một ngôi mộ không được ai chú ý mang tên Dr. William Levingston.
Năng hướng làm thuốc của William Rockefeller là một yếu tố quan trọng khiến y ưa chuộng nghề trộm ngựa. Khi có người dự định đi sang quận lân cận vào buổi sáng, người ta thường buộc một con ngựa đực thật đẹp phía sau cỗ xe và tiến ra lộ trống. Đó là cơ hội cho y lén cắp chú ngựa đực. Vào ngày 28/7/1849, y bị buộc tội hiếp dâm một nô tì ở Cayuga, New York. Về sau người ta phát hiện y có mặt ở Oswego, New York, và một lần nữa y bị trục xuất đi đâu không rõ. Sở dĩ y có tiền để theo đuổi đàn bà là nhờ y bán được "thần dược trị ung thư" và một sản phẩm khác mang tên Wonder Working Liniment, một loại dầu nóng bán với giá $2 dollars mỗi lọ. Dầu nầy gồm có dầu thô đã lấy hết xăng hộp quẹt, chỉ còn một dung dịch đậm đặt gồm paraffin , nhớt, và hắc ín, tất cả làm thành cái mệnh danh là liniment. "Thần dược" ban đầu của William Rockefeller đã tồn tại cho đến mãi gần đây với nhãn hiệu Nujol, chủ yếu bao gồm dầu lửa và được rao bán như là một loại thuốc xổ. Ai cũng biết Nujol chỉ là một tên quảng cáo có nghĩa là new oil, trái với old oil, thế thôi. Khi bán ra như là một chất chống táo bón, Nujol cướp đi những sinh tố chống mỡ của cơ thể, vì khoa học cho thấy rằng dầu mõ tráng hết mặt ruột và không cho ruột hấp thụ nhiều sinh tố cần thiết khác. Những người chế tạo thuốc đó đưa thêm carotene như một thứ trấn thống, nhưng chẳng ích gì. Nujol được chế bởi một chi nhánh của Standard Oil ở New Jersey mang tên Stanco , chi nhánh chỉ có một sản phẩm duy nhất khác được chế tạo trong cùng cơ sở: thuốc trừ sâu "Flit."

3. TNS Royal S. Copeland: tay sai của Rockefeller

Một trong những chính khách hậu thuẫn cho Nujol là TNS Royal S. Copeland, chỉ biết phục vụ quyền lợi của dòng họ Rockefeller. Ông là một y sỹ được Rockefeller bổ nhiệm làm giám đốc sở Y Tế Tiểu bang New York và sau đó được tài trợ để vận động tranh cử vào Thượng Viện. Sự kiện Copeland công khai bày tỏ chủ nghĩa con buôn đã làm ngạc nhiên ngay cả những phóng viên bản lãnh nhất ở Washington. Ông đã dành hết nhiệm kỳ thượng viện của mình để quảng cáo mỗi ngày cho Nujol. Người ta xếp đặt một máy vi âm trong văn phòng của ông mỗi sáng; tiết mục thương mại đầu tiên là chương trình Nujol; nhờ chương trình nầy ông được trả $75,000 mỗi năm, một số tiền khổng lồ đối với thập niên 1930 và lớn hơn cả lương tổng thống Mỹ. Chiến công của TNS Copeland khiến ông mang nhiều tên tục khác nhau ở Capitol Hill. Ông thường được gọi là “Senator from the American Medical Association,” vì ông nhiệt liệt hậu thuẫn bất kỳ một chương trình nào của hiệp hội nầy và của Morris Fishbein. Xác thực hơn, ông thường được gọi là "The Senator of Standard Oil." Người ta mong đợi ông sẽ thăng tiến bất kỳ dự luật nào nhằm làm lợi cho tập đoàn độc quyền của Rockefeller.

4. Độc quyền y dược Medical Monopoly

Cũng như bố già Rockefeller cả đời theo đuổi gái, con trai của y lại bị ám ảnh về tiền, thay vì gái, chỉ biết tìm cách thu về càng nhiều của cải và quyền lực càng tốt. Tuy nhiên, những thành tựu chính của mưu đồ săn đuổi quyền lực của Rockefeller, kế sách độc quyền, thành lập các cơ quan để cai trị người dân Hoa Kỳ, thành lập ngân hàng trung ương, thành lập Quỹ Dự Trữ Liên Bang (Federal Reserve), hậu thuẫn cách mạng cộng sản quốc tế và thành lập tập đoàn Độc Quyền Medical Monopoly, tất cả đều phát xuất từ dòng họ Rothschild hay từ những tay chân của họ ở Âu Châu. Các hồ sơ của John D. Rockefeller không cho thấy y thiết kế bất kỳ một chương trình nào như thế. Khái niệm về cơ quan từ thiện miễn thuế bắt nguồn với cơ quan Rothschild mang tên George Peabody vào năm 1865. Cơ quan Peabody Education Foundation về sau trở thành Rockefeller Foundation. Ngay cả cái đầu óc ma quỷ của John D. Rockefeller cũng không chắc đã thai nghén quỷ kế đó. Một sử gia xã hội đã mô tả sự phát triển đại thể của thế kỷ 19, khi mà những phong trào từ thiện và chủ nghĩa cộng sản thế giới đang trở thành những phong trào quan trọng, như là một trong những mặt tiền hấp dẫn của lịch sử, có thể tương ứng với phát minh bánh xe. Phát minh mới nầy là khái niệm của lũ chuột tựu trung đã phát triển những trí khôn của chúng đủ cao để chúng có thể sập bẫy được con người bằng vài miếng phó mát. Từ đó lịch xử nhân loại là lịch sử của loài chuột săn bắt loài người bằng cặm bẫy. Chủ Nghĩa Xã Hội – hay bất kỳ chương trình chính phủ nào – chỉ là con chuột giăng bẫy bằng phó mát và tự tay bắt người.

5. Standard Oil của Rockefeller

Dân Biểu Wright Putman, Chủ tịch Ủy ban Ngân hàng và Tiền tệ Hạ Viện, ghi nhận rằng định chế của Cơ quan Rockefeller Foundation đã cô lập Standard Oil một cách hữu hiệu khỏi mọi cạnh tranh. Chứng khoán của công ty nầy được bảo vệ khỏi mọi tác động của thị trường hay khỏi rủi ro bị các công ty cạnh tranh mua lại. Standard Oilcũng được miễn thuế, trút thêm gánh nặng lên người thọ thuế Hoa Kỳ. Những chỉ trích rộng khắp bắt đầu được nghe thấy đối với những thủ thuật độc quyền của Rockefeller, và âm mưu lẫn trốn thuế và cạnh tranh của y cũng bị phơi bày qua dự thảo Hiến Chương General Education Board được đề xuất bởi Nelson Aldrich, sui gia của Rockefeller và là lãnh tụ khối đa số của Đảng Cộng Hòa tại Thượng Viện. Hiến Chương nầy cuối cùng đã được thông qua vào năm 1913 – cũng là năm ra đời đạo luật thuế lũy tiến và đạo luật Federal Reserve Act. TNS Robert F. Wagner, một trong nhiều thượng nghị sỹ đến từ Standard Oil, đã thôi thúc Thượng Viện phê chuẩn hiến chương nầy. Sau đó hiến chương được ký bởi John D. Rockefeller, John D. Rockefeller, Jr., Henry Pratt Judson, hiệu trưởng Đại Học University of Chicago của Rockefeller, Simon Flexner, Giám đốc Viện Rockefeller Institute, Starr Jameson, được mô tả như là cố vấn riêng của John D. Rockefeller và Charles W. Eliot, Hiệu trưởng Đại Học Harvard.
Độc quyền xăng dầu của Rockefeller nay đã 125 năm, mặc dù vào năm 1911, do sức ép của công chúng phẫn nộ, Tối Cao Pháp Viện đã ra phán quyết phải phân tán nhỏ tập đoàn độc quyền đó. Tuy nhiên, những công ty được phân tán vẫn tiếp tục phục vụ quyền lợi của Rockefeller. Gia đình Rockefeller giữ lại 2% cổ phần chỉ đạo (stock holding) trong mỗi công ty "mới" đó, trong khi các cơ quan Rockefeller nắm 3% cổ phần chỉ đạo trong mỗi công ty. Điều đó mang đến cho họ 5% lợi nhuận trong mỗi công ty; 1% cổ phần chỉ đạo trong một công ty thường đủ để duy trì quyền kiểm soát.

6. Rockefeller và Cách Mạng Cộng Sản Thế giới

Sự dính líu của dòng họ Rockefeller trong việc thăng tiến Cách Mạng Cộng Sản Thế Giới cũng bắt nguồn từ quyền lợi kinh tế của họ. Không bao giờ có một gắn bó nào với ý thức hệ Marxist cả. Cũng như bất kỳ thứ gì khác, ý thức hệ đó chỉ có để lợi dụng mà thôi. Vào đầu thế kỷ 20, Standard Oil của Rockefeller cạnh tranh mãnh liệt với Royal Dutch Shell để kiểm soát thị trường dầu nhớt Âu Châu. Nội dung bên dưới cho thấy kế sách của Rockefeller đối phó với hiểm họa cạnh tranh nầy ra sao.
Cuộc điều trần trước Quốc Hội cho thấy Rockefeller đã gởi những số tiền lớn cho Lenin và Trotsky để xách động cuộc Cách Mạng Cộng Sản năm 1905. Trước đó, Jacob Schiff, chuyên viên ngân hàng của y, đã tài trợ cho quân Nhật trong cuộc chiến chống Nga và đã gởi George Kennon, sứ thần riêng của y, đến Nga để sống ở đó khoảng 20 năm nhằm thăng tiến những hoạt động cách mạng chống Nga Hoàng. Khi Nga hoàng thoái vị, Trotsky được đưa lên một chiếc tàu với 300 tay cách mạng cộng sản từ khu Lower Side của New York. Rockefeller được Woodrow Wilson cấp một thông hành đặc biệt dành cho Trotsky và gởi Lincoln Steffens đi cùng với y để bảo đảm Trotsky được đưa trở lại Nga an toàn. Về chi phí di chuyển, Rockefeller đã đút túi Trotsky $10,000 dollars.
Vào ngày 13/5/1917, khi chiếc tàu ghé lại Halifax, các sỹ quan Mật Vụ Canada lập tức bắt giữ Trotsky và nhốt y tại Nova Scotia. Sự việc trở nên một đề tài tranh luận quốc tế sôi nổi, vì những viên chức chính phủ hàng đầu của một số quốc gia quyết liệt đòi thả Trotsky. Sở Mật Vụ được báo cho biết Trotsky đang toan tính đưa Nga ra khỏi cuộc chiến, giải tỏa thêm nhiều quân số Đức để lực lượng nầy tấn công các binh sỹ Canada ở mặt trận phía Tây. Thủ tướng Lloyd George vội vã đánh điện từ Luân Đôn để ra lệnh Sở Mật Vụ thả ngay Trotsky – lệnh bị làm ngơ. Cuối cùng Trotsky được thả nhờ sự can thiệp của một trong số những bộ hạ trung thành nhất của Rockefeller là Thủ Tướng Canada Mackenzie King, người đã từng là một chuyên viên "lao động" cho dòng họ Rockefeller. King đích thân ra lệnh thả Trotsky để hắn đi tiếp như một sứ thần của dòng họ Rockefeller, được giao nhiệm vụ phải thăng cuộc Cách mạng Bolshevik. Như thế, Dr. Armand Hammer, người từng lớn tiếng đề cao ảnh hưởng của mình ở Nga như là bạn của Lenin, đã đưa ra một tuyên bố vô nghĩa so với vai trò của dòng họ Rockefeller trong việc hậu thuẫn chủ nghĩa Cộng Sản Quốc Tế. Mặc dù chủ nghĩa Cộng Sản, cũng như bao chủ nghĩa khác, đã bắt nguồn từ sự cấu kết của Marx với dòng họ Rothschild, nó đã tranh thủ được hậu thuẫn đầy uy thế của John D. Rockefeller vì y đã nhìn thấy bản chất của chủ nghĩa nầy: độc quyền tối hậu, không những trong việc kiểm soát chính phủ, kiểm soát hệ thống tiền tệ và tất cả tài sản, mà còn là một độc quyền sẽ, như những xí nghiệp mà nó mô phỏng, có khả năng tự duy trì và duy trì vĩnh viễn. Đó chính là tiến trình luận lý khởi đi từ tập đoàn độc quyền Standard Oil, và đó cũng là âm mưu đối phó với sự cạnh tranh của Royal Dutch Shell như vừa được để cập ở trên.

7. Rockefeller: Tập Đoàn I.G. Farben và Đức Quốc Xã

Một bước quan trọng trong hành trình nắm lấy độc quyền thế giới là sự hợp tác xa tầm do dòng họ Rothschild phát minh. Đó là tập đoàn dược phẩm và hóa chất quốc tế mang tên I.G Farben. Tập đoàn được gọi là "a state within a state (nhà nước bên trong một nhà nước)," và được tạo ra năm 1925 với tên Interessen Gemeinschaft Farbenindustrie Aktien gesellschaft, thường gọi tắt là I.G Farben - đơn thuần là một Cartel. Tập đoàn nầy khởi sự vào năm 1904, khi sáu công ty hóa chất hàng đầu ở Đức bắt đầu thương thảo để thành lập tập đoàn tối hậu, sát nhập Badische Anilin, Bayer, Agfa, Hoechst, Weiler-ter-Meer, Greisheim-Electron. Đầu não chỉ đạo và tài trợ đến từ bọn Rothschild, vốn được đại diện bởi tay chủ ngân hàng người Đức, Max Warburg, thuộc công ty M.M. Warburg Company. Tay nầy về sau cầm đầu cơ quan Mật Vụ Đức trong Đệ Nhất Thế Chiến và là cố vấn tài chánh cho Hoàng Đế Phổ. Khi hoàng đế bị lật đổ vì thua trận, Max Warburg không bị đày đến Hòa Lan với ông mà trái lại đã trở thành cố vấn tài chánh cho chính phủ mới.
Vua chúa có thể đến rồi đi, nhưng quyền lực thực sự nằm trong tay những chủ ngân hàng. Trong khi đại diện cho Đức tại Hội Nghị Hòa Bình Paris, Max Warburg bỏ ra nhiều giờ để tái phục những liên hệ gia đình với người anh em ruột là Paul Warburg – tay nầy, sau khi soạn thảo dự luật Federal Reserve Act tại đảo Jekyll Island, đã làm giám đốc hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ trong chiến tranh. Bấy giờ y làm việc ở Paris với tư cách là cố vấn tài chánh cho Woodrow Wilson.
Chẳng bao lâu tập đoàn I.G Farben đã có một hệ thống trị giá 6 tỉ marks, điều khiển khoảng 500 xí nghiệp. Giám đốc đầu tiên của I.G Farben là Giáo Sư Carl Bosch. Trong thời kỳ Cộng Hòa Weimar, nhờ biết đón gió, những viên chức của I.G Farben bắt đầu cấu kết chặt chẽ với Adolf Hitler, cung ứng nhiều tài chánh và ảnh hưởng mà Hitler đang cần. Sự thành công của I.G Farben đã khởi động sự chú ý của những kỹ nghệ gia khác. Henry Ford tỏ lòng cảm phục và thiết lập một chi nhánh Ford Motor Company ở Đức. I.G Farben đã mua 40% cổ phần. Sau đó I.G Farben thành lập một chi nhánh ở Hoa Kỳ mang tên American I.G. hợp tác với Standard Oil ở New Jersey. Những giám đốc của chi nhánh nầy gồm có Walter Teagle, giám đốc Standard Oil , Paul Warburg thuộc Kuhn Loeb & Company và Edsel Ford, đại diện cho công ty Ford. John Foster Dulles (thuộc xí nghiệp luật Sullivan and Cromwell) trở thành luật sư của I.G Farben, thường xuyên đi lại giữa New York và Berlin để công tác cho tập đoàn nầy. Arthur Dean, đối tác ngành luật của ông, hiện là một giám đốc của American Banknote trong nhiều năm; đây là một xí nghiệp cung ứng giấy in bạc dollars cho Hoa Kỳ. Dean cũng là một thương thuyết gia chính phủ trong hậu trường, chuyên thương thuyết về vũ khí tại những hội nghị tài binh. Dean cũng là một giám đốc của American Ag & Chem Company của Rockefeller. Ông cũng là một giám đốc của American Solvay, American Metal và những xí nghiệp khác. Với tư cách là luật sư cho gia đình giàu có Hochschild đang sở hữu hai công ty Climax Molybdenum American Metal, Dean đã trở thành giám đốc danh dự của Council on Foreign Relations, Asia Foundation, International House, Carnegie Foundation, Sloan Kettering Cancer Center.
Vào năm 1930, Standard Oil thông báo đã mua một tập đoàn rượu độc quyền ở Đức, một thương vụ do I.G Farben đạo diễn. Sau khi Hitler lên cầm quyền, John D. Rockefeller ủy nhiệm Ivy Lee, nhân viên báo chí riêng của y, cho Hitler để phục vụ như một cố vấn toàn thời gian về vấn đề tái võ trang nước Đức, một bước cần thiết để giàn dựng Đệ Nhị Thế Chiến. Sau đó Standard Oil xây dựng những xưởng lọc dầu ở Đức cho Đức Quốc Xã và tiếp tục cung ứng xăng dầu cho họ trong Đệ Nhị Thế Chiến. Trong thập niên 1930, Standard Oil được Đức chi trả bằng những chuyến tàu lớn gồm những dụng cụ âm nhạc và bằng chính những chiếc tàu được chế tạo tại những xưởng đóng tàu của Đức. Sở Mật Vụ Gestapo của Đức Quốc Xã thực sự được thành lập từ hệ thống tình báo toàn cầu mà I.G Farben đã duy trì ngay từ ngày đầu. Herma Schmitz, người kế vị Carl Bosch trong chức giám đốc I.G Farben, trở thành cố vấn riêng cho Thủ Tướng Brüning. Khi Hitler lên cầm quyền, Schmitz trở thành cố vấn bí mật tín cẩn nhất của ông. Liên hệ đó rất bí mật nên báo chí được lệnh không chụp hình họ đứng chung. Schmitz được phong là một thành viên danh dự của Đức Quốc Xã, trong khi cộng sự viên của ông, Carl Krauch, trở thành cố vấn chính của Göring để thực hiện Kế Hoạch Bốn Năm của Đức Quốc Xã. Tất cả cho thấy I.G Farben, đã thực sự liên minh với Gestapo.
Vào năm 1924, xí nghiệp sản xuất vũ khí Krupp Industries của Đức bị khủng hoảng tài chánh nghiêm trọng và được cứu nguy bằng khoản vay $10 triệu tiền mặt từ Hallgarten & Company Goldman Sachs, hai trong số những xí nghiệp nổi tiếng nhất của Wall Street. Kế hoạch tái vũ trang nước Đức chỉ có thể tiếp tục sau khi xí nghiệp Dillon Reed cho bán ra $100 triệu công khố phiếu Đức ở Wall Street cho mục đích đó.
Vào năm 1939, Frank Howard, một phó giám đốc của Standard Oil viếng thăm Đức. Ông là một khuôn mặt trọng yếu tong việc duy trì những quan hệ giữa Standard Oil I.G Farben,. Vào lúc đó, ban giám đốc của American I.G. gồm có Charles Mitchell, giám đốc National City Bank, Carl Bosch, Paul Warburg, Herman Schmitz, Max Ilgner. Mặc dù tên ông ít ai biết đến, Frank Howard là một khuôn mặt then chốt trong nhiều năm trong các hoạt động của Standard Oil trong cương vị giám đốc nghiên cứu và hợp đồng quốc tế. Ông cũng là phó giám đốc ủy ban nghiên cứu tại Viện Sloan Kettering Institute trong thập niên 1930. Ông là viên chức then chốt trong việc duy trì quan hệ giữa Standard Oil I.G Farben. Ông còn là tham vấn cho xí nghiệp dược phẩm Rohm and Haas, đại diện cho mối quan hệ của Rockefeller với xí nghiệp đó. Ông đã giúp phát triển cao su tổng hợp, một yếu tố then chốt cho Đức trong Đệ Nhị Thế Chiến. Ông còn là tham vấn cho xí nghiệp dược phẩm Rohm and Haas, đại diện cho mối quan hệ của Rockefeller với xí nghiệp đó.
Bất chấp những tàn phá khủng khiếp tại hầu hết những thành phố Đức trong Đệ Nhị Thế Chiến, cơ sở I.G. Farben, một trong những tòa nhà lớn nhất ở Frankfort, vẫn còn nguyên vẹn như một phép lạ. Một lâu đài Rockefeller rộng lớn ở Frankfort cũng đứng nguyện vẹn. Frankfort là nơi sinh thành của gia đình Rothschild. Không phải ngẫu nhiên mà chính phủ hậu chiến của Đức – Allied Military Government – đặt văn phòng tại tòa nhà lộng lẫy của I.G. Farben. Chính phủ nầy do Tướng Lucius Clay đứng đầu – về sau ông trở thành một đối tác của tập đoàn ngân hàng Lehman Brothers ở New York. Bộ Chính Trị (Political Division) do Robert Murphy đứng đầu – người chủ tọa các phiên xử tại Nüremberg, nơi mà ông đã xuất sắc trong việc đánh bóng những viên chức của I.G. Farben và Bá tước Kurt von Schröder. Schröder bị giam trong tại tập trung một thời gian ngắn và sau đó được phóng thích để về làm ngân hàng. Bộ Kinh Tế do Lewis Douglas đứng đầu – tay nầy là con trai của kẻ sáng lập ra trung tâm Memorial Center ở New York, chủ tịch của công ty Mutual Life và giám đốc của General Motors. Douglas được dự trù để trở thành Cao Ủy Hoa Kỳ tại Đức nhưng ông đồng ý nhường chỗ cho người anh em rể là John McCloy. Một trùng hợp lý thú là tất cả McCloy, Douglas, và Thủ tướng Đức Konrad Adenauer đều cưới các con gái của John Zinsser, một đối tác của J.P. Morgan Company.
Vì là tập đoàn độc quyền lớn nhất thế giới, I.G. Farben và những công ty dược phẩm nào mà nó kiểm soát ở Hoa Kỳ thông qua quyền lợi của Rockefeller đều là nguồn gốc của nhiều dạng phát triển khó giải thích trong việc sản xuất và phân phối dược phẩm. Từ năm 1908 đến 1936, I.G. Farben giữ kín phát minh của họ về sulfanilamide, một dược liệu có thể trở thành một vũ khí tiềm năng trong kho dược phẩm.
Vào năm 1920, I.G. Farben đã ký những hợp đồng với các xí nghiệp dược phẩm quan trọng ở Thụy Sỹ như Sandoz Ciba-Geigy. Năm 1926, I.G. Farben sát nhập với Dynamit-Nobel, chi nhánh của xí nghiệp mìn ở Đức. Các viên chức của I.G. Farben sau đó bắt đẩu thương thuyết với Standard Oil về tiềm năng sản xuất than tổng hợp (synthetic coal), một mối de dọa nghiêm trọng đối với độc quyền của Standard Oil. Một thỏa thuận đã đạt được với sự thành lập American I.G., theo đó, cả hai xí nghiệp đều có một vai trò tích cực và chia nhau lợi nhuận.
Trong cuốn Trading with the Enemy, Charles Higham trình bầy đầy đủ những hoạt động của Rockefeller trong Đệ Nhị Thế Chiến. Trong khi những máy bay dội bom của Hitler thả hàng tấn thuốc nổ xuống Luân Đôn, Đức phải trả cho Standard Oil tiền tác quyền cho mỗi gallon xăng mà các máy bay đó xử dụng – dựa trên hợp đồng tác quyền. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, khi Nữ Hoàng Elizabeth sang thăm Hoa Kỳ, bà chỉ lưu lại trong một cơ ngơi của Standard Oil.

8. Rockefeller: Đầu cơ Chiến Tranh

Nelson Rockefeller di chuyển đến Washington sau khi Hoa Kỳ dính dáng vào Đệ Nhị Thế Chiến, trong đó Roosevelt đã bổ nhiệm y vào chức vụ mệnh danh là Coordinator of Inter-American Affairs. Rõ ràng nhiệm vụ của y là điều phối công tác tiếp liệu xăng dầu cho các tàu Đức ở Nam Mỹ từ những bồn dầu của Standard Oil. Y cũng lợi dụng chức vụ của mình để tranh thủ những nhượng bộ quan trọng ở Nam Mỹ cho xí nghiệp tư của y mang tên International Economy Corporation, kể cả phần thị trường cà phê của Columbia. Y đã nhanh chóng nâng giá, một động thái đã giúp y mua những tài sản địa ốc ở Nam Mỹ trị giá khoản $7 tỉ dollars và cũng là nguyên nhân phát sinh thuật ngữ "Yanqui Imperialismo" (Đế quốc Mỹ). Vụ tấn công vào chiếc xe chở Phó Tổng Thống Nixon khi ông viếng Nam Mỹ cho thấy rằng những viên chức Hoa Kỳ là hậu quả đồi bại của dòng họ Rockefeller chuyên phát tán bạo loạn chống người dân Nam Mỹ.
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, 24 viên chức điều hành của Đức bị bên thắng trận truy tố, tất cả đều dính líu đến I.G. Farben, kể cả 11 sỹ quan của xí nghiệp nầy. Tám người được trắng án, kể cả Max Ilgner, cháu của Herman Schmitz. Schmitz nhận hình phạt nghiêm khắc nhất, tám năm tù. Thực ra Ilgner bị kết án ba năm nhưng thời gian ba năm đó được trừ cho thời gian y bị gian giữ chờ ngày ra tòa, do đó y được phóng thích lập tức.

9. Rockefeller và cái chết của cố TTK/LHQ Dag Hammarskjold

Sau Đệ Nhị Thế Chiến, gia đình Rockefeller xử dụng lợi nhuận kiếm được nhờ chiến tranh để mua một phần mỏ lớn của công ty Union Miniere du Haut Katanga, một công ty quặng đồng của Bỉ, gồm cả ngân hàng Société Generale do Dòng Tên kiểm soát.
Chẳng bao lâu sau vụ đầu tư nói trên, gia đình Rockefeller phát động một chiến dịch táo bạo nhằm nắm hết quyền kiểm soát khu mỏ nói trên bằng cách đỡ đầu một cuộc "cách mạng" địa phương chủ yếu qua trung gian của công ty mỏ Grangesberg ở Thụy Điển. Ban đầu kế hoạch nầy được triển khai bởi Sir Ernest Cassel, cố vấn tài chánh cho King Edward VII – con gái của Cassel về sau cưới Lord Mountbatten, một thành viên của gia đình hoàng tộc Anh, cũng bà con với gia đình Rothschild.
Giám đốc công ty Grangesberg bấy giờ là Bo Hammarskjold, có người em là Dag Hammarskjold đang làm Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc - Dag Hammarskjold tử nạn khi máy bay của ông bị bắn hạ khi xảy ra giao tranh trong cuộc "cách mạng Rockefeller" ở Congo. Nhiều nghi vấn được đặt ra không biết ai giết ông và tại sao. Vào ngày 29/7/2005, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hammarskjold, tờ Aftenposten đã đăng tải cuộc phỏng vấn với Thiếu tướng Na Uy Bjørn Egge liên quan đến những biến cố chung quanh cái chết của Hammarskjold. Tướng Egge là viên chức của Hiên Hiệp Quốc đầu tiên nhìn thấy thi hài của Hammarskjold và cho rằng nạn nhân có một cái lỗ trên trán; và cái lỗ nầy sau đó đã được xóa đi trong tấm hình chụp thi thể nạn nhân. Theo Tướng Egge, hình như Hammarskjold văng ra khỏi máy bay và cỏ và lá cây trong hai tay có thể cho thấy ông ta còn sống sau tai nạn và cố bò ra xa chiếc máy bay rơi. Tướng Egge không trực tiếp nói rằng vết thương mà ông nhìn thấy là do bị bắn, và tuyên bố của ông không giống như thông tin do cuộc điều tra chính thức đưa ra. Trong một cuộc phỏng vấn vào ngày 24/3/2007, trên kênh truyền hình NRK của Na Uy, một tên đánh thuê vô danh thuê đã về hưu tuyên bố đã ngủ chung phòng với một tên đánh thuê vô danh khác ngươi Nam Phi, và tên nầy tuyên bố đã bắn Hammarskjold. Tên tình nghi giết người đó đã chết vào cuối thập niên 1990.
Với vai trò Tổng Thư Ký LHQ, Dag Hammarskjold đã ra sức đạt đến một cuộc ngưng bắn ở Congo, trái với chủ trương can thiệp của Rockefeller. Sự can thiệp nầy ở Congo được tiến hành bởi những viên chức có thẩm quyền như Dean Rusk và George Ball thuộc Bộ Ngoại Giao và Fowler Hamilton. Ở Hoa Kỳ, thế lực của Rockefeller tiếp tục đóng vai trò chính trị hàng đầu. Charles Pratt, thủ quỹ của John D. Rockefeller ở Standard Oil, đã cống hiến lâu đài của y ở New York cho tổ chức Do Thái Council on Foreign Relations làm tổng hành dinh toàn cầu. George Pratt Shultz, cháu nội của y, đã trở thành Ngoại Trưởng. Gia đình Rockefeller cũng đóng một vai trò then chốt trong việc tài trợ cho cả phe Cộng Sản Trotsky ở Hoa Kỳ lẫn phe "chống cộng" League for Industrial Democracy." Gia đình Rockefeller cũng rất tích cực trên mặt trận "cánh hữu" qua việc họ đỡ đầu tổ chức John Birch Society. Để giúp Robert Welch, một thành viên Tam Điểm cấp 32, cống hiến toàn thời gian cho tổ chức nói trên, Nelson Rockefeller đã mua với giá "đẹp" xí nghiệp gia đình của ông mang tên Welch Society Company. Welch đã chọn những viên chức nồng cốt cho John Birch Society từ những liên hệ của ông với tổ chức Council on Foreign Relations. Nhiều năm sau đó, những nhà ái quốc Hoa Kỳ luôn thắc mắc tại sao John Birch Society vẫn không thể thăng tiến một mục tiêu "chống cộng" nào như họ đã quảng cáo ầm ĩ. Nguyên nhân chủ yếu có thể là tổ chức đó được giàn dựng theo chỉ đạo của những tay chủ trương cách mạng Cộng sản thế giới. Những nhà ái quốc khác thắc mắc tại sao phần lớn những người nhà văn bảo thủ Mỹ lại bị John Birch Society đưa vào sổ bìa đen gầm 30 năm.
Trong một cố gắng tuyệt vọng nhằm phục hồi hình ảnh của mình, William Buckley, chuyên viên tuyên truyền của CIA, đã phát động một chiến dịch nhằm tấn công "ác liệt" John Birch Society trên tập san National View của ông. Chiến dịch quảng cáo miễn phí nầy cũng chẳng làm được gì để phục hồi một tổ chức đang hấp hối.

10. Những phó sản độc hại của Rockefeller

Ảnh hưởng độc quyền của Rockefeller đã tạo một số hệ quả nơi những nhà thờ giàu có nhất và lớn nhất ở New York. Trinity Church trên Wall Street nhận những nguồn tài chánh từ không ái khác hơn là J.P. Morgan, sở hữu khoảng 40 cơ sở thương mại ở Manhattan, và có một trị giá chứng khoáng khoảng $50 triệu, và nhờ vào đầu tư, đã thực sự mang về lợi nhuận hàng năm khoảng $25 triệu. Chỉ có $2.6 triệu trong số lợi tức nầy được xử dụng cho từ thiện.
Trong ngành y, ảnh hưởng của Rockefeller ăn sâu trong tập đoàn độc quyền Medical Monopoly. Tập đoàn nầy kiểm soát kỹ nghệ thuốc ung thư thông qua trung tâm Sloan Kettering Cancer Center. Hầu hết các giám đốc của nhũng xí nghiệp nầy đều là người của Chase Manhattan Bank, Standard Oil Company hay những xí nghiệp khác của Rockefeller. Tổ chức American College of Surgeons độc quyền kiểm soát các bệnh viện thông qua Ủy ban Hospital Survey Committee đầy thế lực. Với những thành viên như Winthrop Aldrich và David McAlpine Pyle đại diện cho quyền kiểm soát của Rockefeller.
Một tập đoàn y New York Academy of Medicine, - còn được gọi là "rich man club" được Rockefeller FoundationCarnegie Foundation tài trợ để xây một tòa nhà mới - Carnegie Foundation là một chi nhánh của Rockefeller Foundation. Số "tiền gốc" nầy sau đó được dùng để tài trợ một chiến dịch gây quỹ công cộng để xây tòa nhà mới nói trên. Rockefeller đã giao chức giám đốc của tòa nhà mới nầy cho Dr. Lindsly William, con rể của viên quản đốc xí nghiệp Kidder, Peabody Company có liên hệ chặt chẽ vơi tập đoàn J.P. Morgan – tập đoàn nầy ban đầu cũng mang tên Peabody Company. William cưới Grace Kidder Ford. Mặc dù Dr. William được nhiều người biết là một y sỹ tồi, những liên hệ gia đình của ông rất vững. Khi ra tranh cử tổng thống, Franklin D. Roosevelt là một người bại liệt trên xe lăn và mắc phải nhiều bệnh gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho tinh thần. William trở thành một yếu tố trong chiến dịch tranh cử nầy của Franklin D. Roosevelt khi ông công khai chứng thức rằng Roosevelt đủ khả năng làm tổng thống Hoa Kỳ về cả hai mặt thể xác và tinh thần. Y kiến của Dr. William được phổ biến trong một bài viết của tập san Collier's Magazine được phát hành rộng rãi, đã giảm thiểu những hoài nghi của công chúng về tình trạng của Roosevelt. Kết quả, William được bồ nhiệm vào một chức vụ mới thành lập trong nội các Roosevelt: Bộ Trưởng Y Tế (Secretary of Health). Tuy nhiên, phải đợi đến 30 năm sau y tế mới trở thành một bộ nội các, do sự can thiệp của Oscar Ewing.

11. Nọc độc Rockefeller trong y tế và giáo dục Hoa Kỳ

Rockefeller đã bành trướng mạnh mẽ những hoạt động kinh doanh của y trong những tiểu bang nghèo ở Miền Nam bằng cách thành lập Ủy Ban Rockefeller Sanitary Commission. Chủ tịch của ủy ban nầy là Dr. Wickliffe Rose, một đàn em trung thành của Rockefeller, có tên trong hiến chương của Rockefeller Foundation. Mặc dù những mục tiêu có vẻ nhân đạo, ủy ban nầy đòi hỏi những đóng góp tài chánh từ 11 tiểu bang Miền Nam trong đó nó hoạt động, đưa đến việc thành lập những Bộ Y Tế trong những tiêu bang đó và bành trướng những lãnh vực ảnh hưởng quan trọng cho tập đoàn độc quyền dược phẩm của họ.
Hội Đồng General Education Board của Rockefeller đã chi $100 triệu để nắm quyền kiểm soát những đại học y khoa Hoa Kỳ và biến những y sỹ Mỹ thành y sỹ thuộc trường phái cổ điển (allopathic school) thiên về phẫu thuật và xử dụng liều nặng. Hội đồng nầy được phát triển từ cơ quan Peabody Foundation và cũng chi khoảng $66 triệu cho giáo dục Da Đen (Negro education).
Một trong những hậu quả xa tầm của triết lý chính trị của hội đồng giáo dục đó được hoàn thành là một khoản tài trợ nhỏ $6 triệu dollars cho Đại Học Columbia University vào năm 1917 nhằm thành lập Trường "cấp tiến" Lincoln School. Từ trường nầy, phát triển xuống hệ thống quốc gia của những nhà giáo cấp tiến và các nhà xã hội học có tầm ảnh hưởng độc hại không khác nào những mục tiêu của Đảng Cộng Sản, một hệ thống hưởng lợi khác của những tài trợ Rockefeller. Ngay từ đầu, Trường Lincoln School đã được mô tả thẳng thắn như là một trường cách mạng cấp tiểu học và trung học trên toàn Hoa Kỳ. Trường nầy lập tức hủy bỏ tất cả những lý thuyết giáo dục dựa trên những bộ môn quy ước và có truyền thống lâu đời, nghĩa là, hủy bỏ phương pháp giáo dục tập trung trên những bộ môn như Latin và số học nhằm giúp học sinh suy nghĩ theo luận lý và biết giải quyết vấn đề. Jules Abel, người viết tiểu sử cho Rockefeller, ca ngợi Trường Lincoln School như là một "tia sáng báo hiệu trong giáo dục cấp tiến."
Những học bổng của Viện Rockefeller Institute đã sản sinh ra nhiều chuyên viên xuất sắc trong các chương trình nguyên tử của Hoa Kỳ, như J. Robert Oppenheimer, về sau bị loại ra khỏi các phòng thí nghiệm chính phủ vì bị tình nghi làm gián điệp cho Nga. Phần lớn những bạn bè và cộng sự viên của y đều là những điệp viên Nga. Cơ quan Rockefeller Foundation đã tạo ra một số nhóm phó sản hiện đang hoành hành Hoa Kỳ với nhiều thứ bệnh, một trong những bệnh đó mang tên Social Science Research Council, một tổ chức đã một tay sản sinh khắp nước một kỹ nghệ mệnh danh là "poverty industry," một kỹ nghệ tốn khoảng $130 tỉ tiền thuế trong khi lấy thêm $6 tỉ nữa để chi trả những người điều hành kỹ nghệ đó. Số tiền đó được nói là để cung cấp ăn ở cho tất cả những "người nghèo," nhưng thực ra được tiêu pha qua một hệ thống hành chánh bao la làm lợi cho vô số những tay "tham vấn" ký sinh.
Bất chấp bao nhiêu năm nghiên cứu, các nhà văn chỉ mới có thể tìm hiểu được bề mặt của những ảnh hưởng liệt kê bên trên của Rockefeller. Chẳng hạn, xí nghiệp dược khổng lồ Burroughs Wellcome hoàn toàn thuộc sở hữu của xí nghiệp "từ thiện" Wellcome Trust. Xí nghiệp nầy lại được điều hành bởi Lord Oliver Franks, một thành viên then chốt của tổ chức London Connection vốn chủ trương Hoa Kỳ chỉ là một thuộc địa của Anh. Franks là đại sứ Anh tại Hoa Kỳ từ năm 1948-1952. Ông hiện là một giám đốc của Rockefeller Foundation, và là đại diện chính cho cơ quan nầy ở Anh. Ông cũng là (i) một giám đốc của ngân hàng Schroder Bank - vốn đã từng quản lý trương mục cá nhân của Hitler – (ii) giám đốc của Rhodes Trust có nhiệm vụ phê chuẩn những học bổng Rhodes, (iii) giáo sư ngoại ngạch tại đại Học Chicago và (iv) chủ tịch của ngân hàng Lloyd's Bank, một trong năm Đại Ngân Hàng (Big Five) của Anh.
Những phó sản của Rockefeller Foundation gồm có nhóm thảo thuyết nhiều ảnh hưởng Washington Think-tank, Brookings Institution, National Bureau of Economic Research (đóng một vai trò then chốt trong việc thao túng thị trường chứng khoáng), Public Administration Clearing House, Council of State Governments (kiểm soát các cơ quan lập pháp tiểu bang), và Institute of Pacific Relations (mặt trận Cộng Sản khét tiếng nhất ở Hoa Kỳ). Gia đình Rockefeller hình như là những giám đốc của nhóm nầy, tài trợ nó qua trung gian của cố vấn tài chánh Lewis Lichtenstein Strauss, thuộc công ty Kuhn, Loeb Company.

12. Rockefeller và âm mưu Federal Reserve

Gia đình Rockefeller đã duy trì quyền kiểm soát của họ trong ngân hàng Chase Manhattan Bank. Từ đó họ kiểm soát $42.5 tỉ tài sản. Chase Manhattan Bank có quan hệ mật thiết với bốn đại công ty bảo hiểm (Big Four) – riêng ba trong số nầy ( Metropolitan, Equitable New York Life) có đến $113 tỉ tài sản vào năm 1969.
Với sự kiện Ronald Reagan lên làm tổng thống vào năm 1980, tập đoàn Rockefeller tìm cách che đậy bớt sự hỗ trợ lâu đời của họ đối với chủ nghĩa Cộng Sản quốc tế bằng cách đặt để ở Washington một chính quyền được nói là "chống cộng." Tuy nhiên, chiến dịch tranh cử của Reagan đã được kiểm soát bởi hai viên chức của tập đoàn Bechtel Corporation là (i) giám đốc George Pratt Schultz, thừa tự của Standard Oil, và Casper Weinberger, luật sư của ông. Schultz được bổ nhiệm làm Ngoại Trưởng, Weinberger làm Bộ Trưởng Quốc Phòng; Bechtel Corporation nhận tài trợ của công ty Schröder-Rockefeller Company, một liên minh giữa ngân hàng Schröder Bank và những thừa tự của Rockefeller.
Ảnh hưởng của Rockefeller cũng tiếp tục chiếm ưu thế trong lãnh vực tiền tệ. Từ tháng 11/1910, khi TNS Nelson Aldrich chủ tọa hội nghị bí mật trên đảo Jekyll Island để đưa ra Đạo Luật Federal Reserve Act, gia đình Rockefeller đã giam hãm chúng ta bên trong tập đoàn London Connection - một tổ chức của Anh chủ trương Hoa Kỳ là một thuộc địa của Anh.
Dưới thời Tổng Thống Carter, David Rockefeller đã "tử tế" gởi Paul Volcker, trợ tá riêng của y, đến Washington để đứng đầu Hội Đồng Federal Reserve Board. Reagan đã thay thế tay nầy vào năm 1987 với Alan Greenspan - một đối tác của J.P. Morgan Company! Ảnh hưởng của họ trên hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ vẫn không thay đổi qua nhiều âm mưu tài chánh của họ - một trong những âm mưu lợi hại nhất là việc tịch thu vàng tư hữu của các công dân Hoa Kỳ theo lệnh của Roosevelt. Các công dân Hoa Kỳ phải giao nạp vàng của họ cho Hệ thống Federal Reserve System. Hiến Pháp cho phép trưng dụng có bồi thường vì công ích nhưng cấm tịch biên vì tư lợi. Những người chủ mới của số vàng tịch biên sau đó đã tăng giá vàng từ $20 lên $35 mỗi ounce, ban cho họ một mối lợi khổng lồ.

13. Công lý ở đâu?

Khi tìm hiểu ảnh hưởng cùng khắp của dòng họ Rockefeller và bộ máy điều khiển ngoại bang của họ là tập đoàn Rothschild trên mọi phương diện của đời sống Hoa Kỳ, người Mỹ phải tự hỏi, "Có thể làm được gì?" Lẽ phải chỉ có thể thắng khi các công dân tích cực đòi công lý. Công lý chỉ có thể thắng khi mỗi công dân nhận thức được rằng đòi công lý chính là bổn phận do Thượng Đế giao phó cho họ. Lịch sử đã ghi chép tất cả những tội ác của bọn cướp đoạt Hiến Pháp Hoa Kỳ. Nhiều người đã học được bài học đau khổ cho thấy bọn độc quyền Rockefeller đang xử dụng thế lực ác quỷ của chúng hầu như chỉ qua trung gian của những viên chức liên bang và tiểu bang. Chúng ta nên theo gương Ron Paul, từng tranh cử tổng thống Hoa Kỳ trên một chiến dịch hết sức nhạy cảm và thực tế - hủy bỏ Federal Reserve, hủy bỏ FBI, hủy bỏ CIA. Từ nhiều năm ai cũng biết rằng 90% Cơ Quan Điều Tra Liên Bang FBI - được giả định thành lập để chống tội phạm – thực ra chỉ để sách nhiễu và cô lập những người bất đồng chính trị.
Các nghiệp đoàn tội phạm Rockefeller hiện đang đánh cướp của Hoa Kỳ một triệu dollars mỗi năm – một phần ba số tiền nầy tượng trưng cho những vụ đánh cắp của tập đoàn Drug Trust và những chi nhánh của nó. Trước khi tiến hành một nỗ lực bền bĩ nhằm đánh trả những vụ ăn cướp, người Mỹ phải nỗ lực lấy lại sức khỏe. Hoa Kỳ đã trở thành quốc gia lớn nhất và sản tạo nhất trên thế giới vì Hoa Kỳ có những công dân lành mạnh. Khi nghiệp đoàn Rockefeller Syndicate bắt dầu tiếp quản ngành y của Hoa Kỳ vào năm 1910, những công dân của chúng ta rơi vào suy yếu thấy rõ. Ngày nay, chúng ta mắc phải nhiều chứng bệnh suy hoại, cả về tinh thần lẫn thể xác, hầu như tất cả đều có thể quy trách trực tiếp cho những hoạt động của tập đoàn độc quyền dược phẩm và đó là mối hiểm họa lớn nhất cho sự sống còn của một quốc gia. Bây giờ chúng ta hãy đoàn kết lại để phục hồi sức khỏe quốc gia của chúng ta – kết quả sẽ là sự phục hồi niềm tự hào của chúng ta, đứng ra nhận lãnh vai trò như là những nhà phát minh và sản xuất của thế giới hiện đại, và chăm sóc những hy vọng, những giấc mơ tự do và độc lập của thế giới.

14. Rockefeller đầu độc Hoa Kỳ

Muốn rao giảng chủ trương về dược phẩm và huyết thanh thì phải rao giảng rằng Thượng Đế không biết mình đang làm gì khi tạo ra cơ thể con người. Thống kê của Cơ Quan Children Bureau of the Federal Security Agency không hậu thuẫn quan niệm đó. Cơ quan nầy cho thấy rằng, kể từ khi có nạn độc quyền dược phẩm trong việc dùng thuốc, chủng ngừa, và chuyền huyết thanh vào cơ thể con người, sức khỏe của quốc gia đã suy hoại nghiêm trọng, nhất là nơi trẻ em.
Những trẻ em hiện được chủng ngừa về cái nầy cái nọ, khi tính miễn nhiễm duy nhất đối với khóa học chính là cơ thể lành mạnh của con người và một dòng máu trong sạch. chúng ta thử suy gẫm những kết quả nghiên cứu sau đây của chính phủ:
a. Gần nửa triệu trẻ em bị nhiễm sốt thấp khớp (rheumatic fever); b. Mười triệu trẻ em nam lẫn nữ dưới 21 tuổi bị loạn thị; c. Nửa triệu bị tình trạng co giật và chỉnh hình; d. Hai triệu bị hỏng thính giác; e. 17,000 bị điếc; f. 400,000 bị lao; g. 75% hư răng; h. 3% số người đăng ký quân dịch (18-19 tuổi) bị bệnh tim; i. 3% bị bệnh tâm thần; j. 2% có vấn đề thần kinh; k. 10% bị loạn thị; l. 2.5% bị hỏng thính giác. Những tình trạng nầy không thấy có trong lúc thiếu thời nơi những người trung niên và già. Chủng ngừa là cách làm phản thiên nhiên duy nhất lúc bấy giờ và đa số chúng ta có đủ sinh lực để tống xuất hết những hậu họa của nạn ô nhiễm máu nầy. Nhưng nếu chúng ta tăng liều lượng gấp 4 hoặc 10 lần thì, như tình trạng các trẻ em ngày nay, những người trung niên hiện nay có thể già đi và những người già hiện nay có thể chết hết.