TRANG CHÍNH TRỊ/KINH TẾ

ĐIỂM SÁCH * "Nghịch Lý Trump" * "Vụ kiện dân sự New York" * Nếu Ô. Donald Trump thắng c "Tối Cao Pháp Viện:" Nghi Án hay Huyền Thoại? * uộc 2024? * RAND REPORT * Ukraine và các tập đoàn cá mập I * Ukraine và các tập đoàn cá mập II * Ukraine và các tập đoàn cá mập III * Karl Marx & Sully Proudhome - PPC * Chủ Nghĩa Lưu Manh * Bản Tự Khai Donald Trump * Do Thái và Huyền Thoại Trân Châu Cảng * Do Thái và Huyền Thoại 9/11 * Tiền Ảo - Digital Money * Sheldon Adelson và Donald Trump * Hồ Sơ Thuế của TT Trump * Hiện Tượng QAnon * Bill Gates và Covid-19 * Covid-19 và những góc tối kịch bản * Truất Phế: Âm mưu của Do Thái * Chủ Nghĩa Lưu Manh * Bản Cáo Trạng Tham Ô của Trump * Israel và âm mưu Lavon Affair * Israel và vụ tàu USS Liberty * Israel và Chính Trị Hoa Kỳ * Do Thái và Thảm Họa FUKUSHIMA * Bên lề Bầu Cử 2016 IV * Hiện Tượng Đạt Lai Lạt Ma II * Hiện Tượng Đạt Lai Lạt Ma I * Bên lề Bầu Cử 2016 III * Bên lề Bầu Cử 2016 II * Bên lề Bầu Cử 2016 * Bức Tranh Toàn Cảnh * Do Thái và Thao Túng Xã Hội * Nghi án chiến Tranh Việt Nam * Biển Đông và Mưu đồ DoThái-TrungQuốc * Chan tướng Chương Trình Fulbright * Điện tín đàu hàng vô điều kiện * Chân tướng TT Đức Angela Markel * Chủ nghĩa Cộng Sản trá hình * Bilderberg Group, Rockefeller, và Cộng Sản * Âm Mưu của Dòng Họ Rothschild và Rockefeller * Sự thật về vụ đánh bom ở Oklahoma City 1995 * Sự thật về ISIS - III * Illuminati và Tam Điểm * Chân tướng Tổng Thống Mỹ: Bill Clinton * Chân tướng Tổng Thống Mỹ: Harry Truman * Chân tướng Tổng Thống Mỹ: Woodwow Wilson * Chân tướng Cộng Sản của John Kerry * Do thái cai trị Hoa Kỳ * Cấu kết giữa Do Thái và Đức Quốc Xã * Vatican và vấn đề cải cách * Waco: tự tử tập thể hay thảm sát tập thể? * Phương trình Bill Gates * Benghazi: sự thật bị ém nhẹm * Hệ thống siêu quyền lực Illuminati * Quần Đảo GULAG và tội ác Do Thái * Hiện tượng Donald Trump - I * Ai giết John F. Kennedy? - I * Ai giết John F. Kennedy? - II * Sự thật về Bản Tuyên Ngôn Cộng sản * Sự thật về ISIS - I * Sự thật về ISIS - II * Killing America * Do Thái và đàn áp tự do ngôn luận * Xã hội Do Thái hóa * Chủ Nghĩa Độc Tài Mềm * Kịch bản Sống chung Hòa bình Mỹ, Nga, Tàu * Bầu cử và quảng cáo TV * Chân tướng Quỹ Dự Trữ Liên Bang: Do Thái * Rockefellers, vua dầu hỏa thế giới * Rockefellers và âm mưu thống trị thế giới * Ai tấn công Charlie Hebdo? * Do Thái kiểm soát 96% truyền thông thế giới * Do Thái và Trung Quốc * Những trùm Cộng Sản Do Thái * Obama: Tổng Thống Do Thái đầu tiên của Mỹ * Cội nguồn Do Thái của John Kerry * Tam Giác Quỷ Mỹ+Tàu+DoThái * Con Bạch Tuộc Do Thái * 9/11: Do Thái là thủ phạm * Nghi Án Miến Điện và Bắc Hàn * Xã Hội Đen *
Dinh Song

Âm Nhạc
* Triết Nhạc Hải Đăng I
* Triết Nhạc Hải Đăng II
* Triết Nhạc Hải Đăng III
* Triết Nhạc Hải Đăng IV
Khoa Học Điện Toán
* Từ Điển Tin Học
Triết Học
* Triết Học, Khoa Học, và Tiến Hóa
Truyện Ngắn Đông Yên
* The Sun Hunters (Người đi săn mặt trời)
* Câu Chuyện một Dòng Sông
* Hẹn Nhau trươc Giao Thừa
* Ngôi Sao Đen
Thơ Đông Yên
* Loài Chim Du Mục
Thơ dịch
* Thí Ca Lãng Mạn Pháp
* Tuyển Tập Thi Ca Anh Mỹ
* Robert Frost Tuyển Tập I
* Emily Dickinson Truyển Tập I
Không Phát Hành
* Edgar Allan Poe Thơ Tuyển Tập
* Edgar Allan Poe Truyện Ngắn Tuyển Tập I
* Edgar Allan Poe Truyện Ngắn Tuyển Tập II
* Edgar Allan Poe Truyện Ngắn Tuyển Tập III
* Edgar Allan Poe Truyện Ngắn Tuyển Tập IV
* Edgar Allan Poe Truyện Ngắn Tuyển Tập V
* Thi Ca Tuyển Tập Anh Mỹ - 2nd Edition
* Robert Frost Tuyển Tập - 2nd Edition
* Emily Dickinson Tuyển Tập - 2nd Edition
Truyện Dịch Song Ngữ
* Truyện Ngắn Song Ngữ I
* Truyện Ngắn Song Ngữ II
Vũ Trụ Học
* Cuộc Chiến Hố Đen
* Thiết Kế Vĩ Đại
* Vũ Trụ từ Hư Không
* Lai Lịch Thời Gian
Đĩa Bay & Người Hành Tinh
* Đĩa Bay và Người Hành Tinh I
* Đĩa Bay và Người Hành Tinh II
* Đĩa Bay và Người Hành Tinh III
* Đĩa Bay và Người Hành Tinh IV
* Đĩa Bay và Người Hành Tinh V
* Đĩa Bay và Người Hành Tinh VI
* Đĩa Bay và Người Hành Tinh VII
Diem Sach

ĐIỂM SÁCH

Mục Lục

* KỲ 1: Architects of Deceptionion - Juri Lina
* KỲ 2: The New confessions of an Economic Hit Man - John Perkins
* KỲ 3: Killing the Host: How Financial Parasites and Debt Bondage Destroy the Global Economy - Michael Hudson
* KỲ 4: The Octopus of Global Control - Charlie Robinson
* KỲ 5: New World Order Assassins - Victor Thorn
* KỲ 6: Everything They Ever Told Me was a Lie - Pat Shannon
* KỲ 7: None Dare Call it Conspiracy - của Gary Allen & Larry Abraham
* KỲ 8: Tragedy and Hope 101: The Illusion of Justice, Freedom, and Democracy - Joseph Plummer
* KỲ 9: The Ruling Elite: The Zionist Seizure of World Power - Deanna Spingola
* KỲ 10: Partners in Crime: The Clintons' Scheme to Monetize the White House for Personal Profit - Jerome Corsi
* KỲ 11: The Bush Crime Family: The Inside Story of an American Dynasty - Roger Stone & Saint John Hunt
* KỲ 12: The Federal Reserve Conspiracy - Antony C. Sutton
* KỲ 13: Illuminati - The Cult that Hijacked the World - Henry Makow
* KỲ 14: The Conspiracy that Will Not Die: How the Rothschild Cabal is Driving America into One-World Government - Robert Gates Sr.
* KỲ 15: Dollarocracy: How the Money and Media Election Complex is Destroying America - John Nichols & Robert W McChesney
* KỲ 16: The Conspiracy that Will Not Die: How the Rothschild Cabal is Driving America into One-World Government – Robert Gates Sr.
* KỲ 17: Comprendre L'Empire – Demain la Gouvernace Globale ou la Revolte des Nations? - Alain Soral
* KỲ 18: Red-Handed – How American Elites Get Rich Helping China Win - Peter Schweizer, Charles Constant...¬
* KỲ 19: Secrets Empires - Peter Schweizer
* KỲ 20: The Enemy Within (How A Totalitarian Movement Is Destroying America) – David Horowitz
* KỲ 21: After America: Get Ready for Armageddon – Mark Steyn
­
Loạt Điểm Sách nầy phần lớn trích từ tác phẩm “Chủ Nghĩa Lưu Manh tập I” của nhà văn Đông Yên. Dưới đây là một số tác phẩm được ưu tiên lựa chọn để lần lược trình bày trong mục Điểm Sách.
- The New Confessions of an Economic Hit Man – John Perkins
- The New World Order Assassins – Victor Thorn
- None Dare Call It Conspiracy – Gary Allen & Larry Abraham
- The Octopus of Global Control – Charlie Robinson
- Killing The Host: How Financial Parasites and Debt Bondage Destroy the Global Economy - Michael Hudson
- Everything They Ever Told Me Was a Lie - Pat Shannan
- Tragedy and Hope 101: The Illusion of Justice, Freedom, and Democracy - Joseph Plummer
- The Bush Crime Family: The Inside Story of an American Dynasty – Roger Stone & Saint John Hunt
- Dollarocracy – John Nichols & Robert W. McChesney
- The Federal Reserve Conspiracy – Antony C. Sutton
- The Rothschilds: the Financial rulers of Nations – John Reeves
­- The Ruling Elite: The Zionist Seizure of World Power - Deanna SpingolaPartners in Crime: The Clintons' Scheme to Monetize the White House for Personal Profit - Dr. Jerome Corsi
­- Architects of Deception – Juri Lina
­- Illuminati - The Cult that Hijacked the World - Henry Makow
­- The Conspiracy that Will Not Die: How the Rothschild Cabal is Driving America into One-World Government – Robert Gates Sr.
- Secrets Empires - Peter Schweizer
- The Enemy Within (How A Totalitarian Movement Is Destroying America) – David Horowitz
- After America: Get Ready for Armageddon – Mark Steyn
­
[<<< Top]

KỲ 1: Architects of Deceptionion - Juri Lina

... Thế giới mà chúng ta đang sống có vẻ đáng sợ và khó hiểu. Các chính trị gia và truyền thông đều tuyên bố không có một biểu mẫu nào cho mọi biến cố xảy ra. Người ta thường chế giễu khái niệm cho rằng có một liên kết bí ẩn giữa những hiện tượng hủy diệt khác nhau; và xem khái niệm đó như là "thuyết âm mưu" vốn không thích hợp với thế giới quan chính dòng. Muốn có được một trật tự nào đó cho hiện tượng hỗn loạn nầy, chúng ta cần một chìa khóa. Chiếc chìa khóa đó nằm trong tác phẩm Architects of Deception của Juri Lina. Tác phẩm nầy cung ứng một trực giác về mạng lưới được ngụy trang phía sau những biến cố quá khứ và hiện tại. Hệ thống chính trị nầy đã được xây dựng bởi những thế lực hoạt động trong hậu trường – một âm mưu lừa bịp toàn diện của những hội kín như Knights Templar, the Illuminati và ngày nay Hội Tam Điểm (Freemasons) – có tất cả 80 hội Tam Điểm Do Thái (Masonic Lodges) ở Hoa Kỳ với hơn 51,943 hội viên. Juri Lina đã thu thập thông tin và những tài liệu hiếm hoi từ nhiều nguồn khác nhau để thiết lập một hồ sờ về những hoạt động tàn hại của những hội kín Do Thái. Tác giả phơi bày mối liên kết giữa những hội kín và cho thấy những hội kín nầy đã tác động trên lịch sử ra sao với sự hậu thuẫn của những tên bù nhìn như Napoleon, Lenin, Trotsky, Hitler, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Roosevelt và Truman – tất cả đều là thành viên cao cấp của Hội Tam Điểm.
Ông xem xét những nghi lễ Tam Điểm và truy nguyên nguồn gốc của chúng. Độc giả sẽ thấy những lý do thực sự phía sau một số cuộc chiến tranh và "cách mạng," từ Cách Mạng Pháp năm 1789 đến Chiến Tranh Việt Nam, Chiến Tranh Vùng Vịnh năm 1990 và cuộc oanh tạc ở Serbia vào năm 1999. Cuối cùng, tác giả cho thấy những thế lực ác quỹ đó thể hiện ra sao ngày nay và chúng có những kế hoạch nào đối với tương lai nhân loại. Tác phẩm phơi bày nhiều huyền thoại nguy hiểm và minh hoạ một bức tranh khác về thế giới, một bức tranh có thể rất xấu xí nhưng dứt khoát có khả năng mô tả những điều kiện thực mà chúng ta đang trực diện. Tác giả cho thấy rằng hội kín Illuminati của Do Thái đang thao túng lịch sử nhân loại. Họ đang phát động một cuộc chiến tranh thầm lặng chống lại nhân loại. Đó là chìa khóa để hiểu lịch sử bi đát và nỗi đau khổ hiện nay của nhân loại. Hơn một ngàn năm nay, những đám cho vay cắt cổ đã âm mưu soán quyền của giáo hội và của giai cấp quý tộc theo một kế hoạch được chi tiết hóa trong cuốn "The Protocols of the Elders of Zion." (Nghi Thức của những Sư Tổ Do Thái). Kế hoạch nầy không đại diện cho tất cả những người Do Thái mà chỉ là một đám chủ ngân hàng được tổ chức thành những hội kín Tam Điểm. Họ kết hôn với những người ngoại chủng và thành lập một hội kín tà đạo và tội ác. Họ lén lút thành lập một chính phủ thế giới toàn trị phía sau bình phong dân chủ. Họ soán ngôi Thượng Đế và thực hiện một bước chuyển tiếp sang chủ nghĩa Satan. Họ đưa các quốc gia vào những cuộc chiến không cần thiết và đầu độc quần chúng với chủ nghĩa đồi trụy, bạo động, đê tiện và trò chơi. Vì họ là những tên vô gia cư, không có quốc gia riêng nên họ sẵn sàng phá nát hành tinh một cách vô tội vạ với Chủ Nghĩa Lưu Manh. Họ tấn công những nền tảng cá biệt và biên giới lãnh thổ của chúng ta, trong đó có tôn giáo, gia đình, quốc gia và chủng tộc, nhằm phá rối chúng ta và phi nhân hóa chúng ta. Giấc mộng bá chủ của họ là kiểm soát não bộ của nhân loại.
Some Quotes
- "The naïve American people will believe just about any lies their government wants to present."
(Dân Mỹ ngây thơ sẽ tin bất kỳ loại nói láo nào mà chính phủ của họ đạo diễn).
- "Gentles are stupid: The GOYIM are a flock of sheep, and we are their wolves...If we have been able to bring them to such a pitch of stupid blindness is it not a proof, and an amazingly clear proof, of the degree to which the mind of the GOYIM is undeveloped in comparison with our mind? This it is, mainly, which guarantees our success...In the most important and fundamental affairs and questions, JUDGES DECIDE AS WE DICTATE TO THEM, see matters in the light wherewith we enfold them for the administration of the GOYIM, of course, through persons who are our tools though we do not appear to have anything in common with them... Even senators and the higher administration accept our counsels. The purely brute mind of the GOYIM is incapable of use for analysis and observation, and still more for the foreseeing whither a certain manner of setting a question may tend... In this difference in capacity for thought between the GOYIM and ourselves may be clearly discerned the seal of our position as the Chosen People and of our higher quality of humanness, in contradistinction to the brute mind of the GOYIM. Their eyes are open, but see nothing before them and do not invent (unless perhaps, material things). From this it is plain that nature herself has destined us to guide and rule the world... Goyim were born only to serve us. Without that, they have no place in the world – only to serve the People of Israel. … Why are gentiles needed? They will work, they will plow, they will reap. We will sit like an effendi and eat. That is why gentiles were created... They are evil and damnable. It is forbidden to be merciful to them. You must send missiles to them and annihilate them. … Waste their seed and exterminate them, devastate them and vanish them from this world."
(Bọn ngoại chủng (những sắc dân không phải Do Thái) ngu đần: Bọn chúng là một bầy cừu, và chúng ta là những con sói của chúng... Nếu chúng ta đã có thể khiến chúng đui mù đến thế thì đó chẳng phải là bằng chứng, và là một bằng chứng hiển nhiên, cho thấy đầu óc của chúng kém phát triển đến mức nào so với chúng ta? Đây là yếu tố bảo đảm sự thành công của chúng ta... Trong những vấn đề quan trọng nhất và căn bản nhất, các quan tòa của chúng đều phán quyết theo mệnh lệnh của chúng ta, nhìn vấn đề theo cách nhìn của chúng ta liên quan đến việc cai trị bọn ngoại chủng, đương nhiên, thông qua đám tay sai của chúng ta mặc dù chúng ta không có một chút gì chung với chúng. Ngay cả những Thượng Nghị Sỹ hay những viên chức cao cấp hơn cũng tuân theo lời cố vấn của chúng ta. Đầu óc thuần túy trâu bò của bọn ngoại chủng không có khả năng xử dụng phân tích và quan sát, và còn tệ hại hơn trong việc tiên liệu hệ quả của một cách đặt vấn đề... Sự khác biệt nầy về khả năng suy nghĩ giữa bọn ngoại chủng và chúng ta khẳng định rõ ràng vị thế đương nhiên của chúng ta như là Chủng Tộc Được Chọn Lựa và sự hơn hẳn của chúng ta trong phẩm chất làm người, trái với đầu óc trâu bò của bọn ngoại chủng. Dù mở mắt chúng cũng không nhìn thấy gì trước mặt và không biết phát minh. Do đó, rõ ràng thiên nhiên đã định đoạt chúng ta phải hướng dẫn và cai trị thế giới... Bọn chúng chỉ sinh ra để phục vụ chúng ta, phục vụ dân tộc Israel; bằng không thì chúng không có chỗ trên thế giới... Tại sao chúng ta cần bọn ngoại chủng? Chúng sẽ làm việc, sẽ cày, sẽ hái. Chúng ta sẽ ngồi không để ăn như một nhà quý tộc. Đó là lý do tại sao bọn ngoại chủng sinh ra... Chúng là ác quỷ và khốn kiếp. Chúng ta không được phép tha thứ chúng. Hãy tiêu diệt chúng bằng phi đạn... Hãy tiêu diệt mầm mống của chúng và tận diệt chúng; hãy quét sạch chúng khỏi trái đất nầy.)
- "Nations must disappear. Religions must cease to exist. Israel alone will continue to exist, since its people has been chosen by God."
(Các quốc gia phải biến mất. Các tôn giáo phải ngưng tồn tại. Chỉ có Israel sẽ tiếp tục tồn tại, vì dân tộc họ đã được Chúa chọn.)
- Wars are the Jews harvest, for with them we wipe out the Christians and get control of their gold. We have already killed 100-million them, and the end is not yet. We shall drive the Christians into war by exploiting their national vanity and stupidity. They will then massacre each other, thus giving room for our own people.
(Chiến tranh là thành quả của Do Thái, vì nhờ chúng mà chúng ta quét sạch bọn Cơ Đốc và kiểm soát vàng của chúng. Chúng ta đã giết 100 triệu người của chúng, và sẽ còn giết nhiều hơn nữa. Chúng ta sẽ đẫy người Cơ Đốc vào chiến tranh bằng cách khai thác lòng tự hào quốc gia và sự ngu xuẩn của chúng. Sau đó chúng sẽ tàn sát lẫn nhau để trống chỗ cho dân của chúng ta.)
- "I fear the Jewish banks with their craftiness and tortuous tricks will entirely control the exuberant riches of America and use it to systematically corrupt modern civilization. The Jews will not hesitate to plunge the whole of Christendom into wars and chaos that the earth should become their inheritance."
(Tôi sợ rằng những ngân hàng Do Thái với những mánh lới của họ và những thủ thuật bóc lột của họ sẽ kiểm soát hoàn toàn của cải giàu có của Hoa Kỳ và xử dụng nó để thui chột nền van minh hiện đại một cách có hệ thống. Do Thái sẽ không ngần ngại đẫy toàn bộ Cơ Đốc Giáo vào chiến tranh và hỗn loạn để trái đất sẽ trở thành tài sản của họ).

[<<< Top]

KỲ 2: The New confessions of an Economic Hit Man - John Perkins

Một trong những nguồn tham khảo chính trong cuốn loạt biên khảo nhiều tập Chủ Nghĩa Lưu Manh là tác phẩm "The New confessions of an Economic Hit Man" (Lời Tự Thú Mới của một Sát Thủ Kinh Tế) của John Perkins. Tác giả từng là cố vấn cho các tập đoàn, các viên chức điều hành, và các doanh nhân. Vốn là kinh tế gia hàng đầu của một xí nghiệp tư vấn quốc tế thuộc một công ty năng lượng bất quy ước, John Perkins được biết đến nhiều nhất nhờ cuốn "Confessions of an Economic Hit Man" – bestseller của New York Times suốt 70 tuần lễ và được xuất bản trên 30 thứ tiếng. Tác phẩm tiếp theo "The New confessions of an Economic Hit Man" đi sâu vào những vấn đề cơ cấu toàn cầu và mô tả những gì chúng ta, cá nhân cũng như tập thể, có thể làm để chỉnh đốn chúng.
John Perkins đã trải nghiệm bốn cuộc sống khác nhau:
(i) Một sát thủ kinh tế;
(ii) Viên chức điều hành CEO của một công ty năng lượng bất quy ước. Ông đã được ân thưởng vì đã không tiết lộ quá khứ sát thủ của ông;
(iii) Một chuyên viên về văn hóa, một giáo sư và nhà văn đã xử dụng chuyên môn của mình để thăng tiến sinh thái và khả năng sinh tồn trong khi tiếp tục giữ đúng lời hứa im lặng về cuộc đời sát thủ kinh tế của ông;
(iv) Trong tư cách một giáo sư dám công khai nói về đời thực của mình liên quan đến nhũng hoạt động phi thường như một sát thủ kinh tế, ông đã phơi bày một thế giới âm mưu và lũng đoạn quốc tế đã biến Hoa Kỳ từ một nền cộng hòa thành một đế quốc toàn cầu càng ngày càng bị nhiều người khắp hành tinh ghê tởm.
Theo Perkins, sát thủ kinh tế (Economic hit men - EHMs) là những tay chuyên nghiệp được trả lương cao để lừa bịp các quốc gia khắp thế giới hàng tỉ dollars. Họ chuyển tiền từ Ngân Hàng Thế Giới (World Bank), Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế của Hoa Kỳ (USAID - US Agency for International Development), và những tổ chức "viện trợ" ngoại quốc vào tủ sắt của những tập đoàn cá mập và vào tư túi của một số gia đình giàu có đang kiểm soát những tài nguyên thiên nhiên của hành tinh. Những công cụ của họ gồm có những báo cáo tài chánh gian lận, những kỳ bầu cử gian lận, hối lộ, trấn lột, và giết người. Họ tiến hành một trò chơi xưa như trái đất, nhưng là một trò chơi đã phát triển vào những chiều mới và khủng khiếp trong thời đại toàn cầu hóa. Tác giả chia xẻ những chi tiết mới về những phương thức mà ông và những người khác đã lừa bịp các quốc gia khắp thế giới, và sau đó, ông cho thấy căn bệnh ung thư mà ông và những sát thủ kinh tế khác tạo ra đã phát triển rộng hơn và sâu hơn nhiều so với trước ở Hoa Kỳ và khắp thế giới – để trở thành hệ thống khống chế của kinh doanh, chính phủ, và xã hội ngày nay.
Sát thủ kinh tế là những toán xung kích của cái mà Perkins gọi là corporatocracy (chế độ tập đoàn) - tức một mạng lưới bao la gồm những tập đoàn, ngân hàng, những chính phủ tay sai - trong thế giới tư bản, cộng sản, và thế giới thứ ba - cùng những gia đình giàu có và thế lực gắn bó với họ. Nếu những sát thủ kinh tế không thể duy trì nguyên trạng thối nát thông qua cưỡng bách bất bạo động, thì đám tay sai sẽ nhập cuộc. Trọng tâm của tác phẩm nầy của John Perkins phơi bày những công cụ của bọn sát thủ kinh tế và tay sai: những lý thuyết kinh tế bịp bợm, những hứa hẹn hảo huyền, những hăm dọa, đảo chánh, hối lộ, trấn lột, gián điệp, nợ, gái, lừa đảo, ám sát, quân phiệt hay đảng phiệt, công an trị. Tất cả những công cụ đó hiện được gia tăng xử dụng khắp thế giới nhiều hơn đáng kể so với thời kỳ mà Perkins phơi bày hơn một thập niên trước đây, trong khi không một ai ý thức được hiểm họa đó. Nhưng công cụ chủ yếu là nợ, qua đó, chúng thuyết phục các quốc gia, nhất là những quốc gia có tầm quan trọng chiến lược, vay những món nợ khổng lồ cho những dự án "phát triển" chỉ có mục đích phục vụ những đại gia trong khi đưa đất nước của họ vào nghèo khó và nợ mãn tính. Và một khi vấy nợ, những quốc gia con nợ sẽ bị điều khiển theo chính sách của chủ nợ qua then máy của những sát thủ đội lốt dưới những cụm từ cường điệu như "cố vấn kinh tế" hay "cố vấn tài chánh."
Tư liệu trong tác phẩm nầy bao quản từ Seychelles, Honduras, Ecuador, Libya, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Âu, Việt Nam, Trung Quốc, và, có lẽ cả ở Hoa Kỳ, một phát triển bất ngờ và hắc ám nhất, trong đó, bọn tân sát thủ kinh tế như các chủ ngân hàng, vận động hành lang, viên chức điều hành tập đoàn, và những bọn khác, đang lừa các chính phủ và công chúng vào những chính sách giúp người giàu càng giàu thêm và người nghèo càng nghèo hơn nữa.
Tóm lại, hai yếu tố Sợ Hãi và Nợ là động cơ của hệ thống Sát Thủ Kinh Tế. Phần còn lại của nhân loại luôn bị răn đe với những thông điệp nhằm khủng bố họ và buộc họ phải tin rằng họ phải trả mọi giá, chấp nhận bất kỳ khoản nợ nào để ngăn chặn kẻ thù được nói là đang ló dạng trước cửa nhà của họ.
"The New confessions of an Economic Hit Man" cho thấy những trực quan sâu thẳm vào những thủ đoạn độc ác mà đám sát thủ kinh tế và đám tay sai đã xử dụng để bành trướng quyền lực của chúng. Tác phẩm cho thấy bọn nầy đã lộng hành ra sao ở Hoa Kỳ cũng như khắp thế giới. Đây là một tác phẩm táo bạo và độc sáng có khả năng minh họa những cuộc khủng hoảng mà chúng ta hiện đang đối mặt. Tác phẩm phản ảnh đầy đủ những phương pháp tàn bạo và tính phi lý về kinh tế đang lèo lái những định chế chính trị vào âm mưu triệt hạ then máy kiểm soát dân chủ đối với quyền lực kinh tế. Mới nghe đề tựa, người ta có thể nghĩ đó là một tiểu thuyết gián điệp; nhưng thực ra đó là một thiên tài liệu sống về kỷ nguyên âm mưu ngày nay, kỹ nguyên thường được mệnh danh là kỹ nguyên toàn cầu hóa hay kỹ nguyên Trật Tự Thế Giới Mới của tập đoàn Do Thái quốc tế, một thuật ngữ cường điệu của Chủ Nghĩa Lưu Manh, Chủ Nghĩa Khủng Bố hay Hỗn Loạn Thế Giới Mới.

Vài mẫu chuyện bên lề
Vào năm 1982, John Perkins viết cuốn "Conscience of an Economic Hit Man" (Lương Tâm của một Sát Thủ Kinh Tế). Tác phẩm nầy đề tặng hai nguyên thủ quốc gia, vốn là những đối tác của ông và là những người mà ông nghĩ như những người đồng chí hướng: Jaime Roldós của Ecuador và Omar Torrijos của Panama. Cả hai đều đã chết vì rớt máy bay. Thực ra cái chết của họ không do tai nạn; họ bị ám sát vì phản đối sự cấu kết của tập đoàn, chính phủ, và các chủ ngân hàng trong âm mưu bá chủ thế giới. Những sát thủ kinh tế như của Perkins không ra tay giết Roldós và Torrijos nên đám sát thủ khác – tức đám tay sai của CIA luôn có mặt ngay phía sau – đã nhảy vào.
John Perkins từng được thuyết phục ngưng viết cuốn "Conscience of an Economic Hit Man." Ông đã cố bắt đầu viết bốn lần nữa trong 20 năm tiếp theo. Mỗi lần như thế, quyết định viết lại của ông đều bị những biến cố thế giới làm ảnh hưởng: Vụ Hoa Kỳ xâm lăng Panama vào năm 1989, Chiến Tranh Vùng Vịnh, Somalia, sự xuất hiện của Osama bin Laden. Tuy nhiên, những hăm dọa hay mua chuộc luôn luôn thuyết phục ông ngưng viết.
Vào năm 2003, giám đốc của một nhà xuất bản lớn thuộc quyền sở hữu của một công ty quốc tế có thế lực đã đọc một bản thảo của tác phẩm ngày nay mang tựa đề "Confessions of an Economic Hit Man." Ông mô tả tác phẩm nầy như một "câu chuyện hấp dẫn cần phải đọc." Sau đó ông mỉm cười một cách buồn bã, lắc đầu, và nói với Perkins rằng, vì những viên chức điều hành tại những trung tâm kiểm soát thế giới (Do Thái) có thể phản đối, ông không thể mạo hiểm xuất bản tác phẩm đó. Ông khuyên Perkins nên biến nó thành tiểu thuyết.
Ông nói, "Chúng tôi có thể phổ biến tác phẩm của ông trong khuôn khổ một nhà văn hư cấu như John le Carré hay Graham Greene."
Nhưng tác phẩm của Perkins không phải là tiểu thuyết hư cấu. Đó là câu chuyện thực của đời ông. Đó là câu chuyện về việc sáng tạo một hệ thống đã phản bội chúng ta. Một nhà xuất bản can đảm hơn – không thuộc quyền sở hữu của một công ty quốc tế của Do Thái - đồng ý giúp Perkins.
Cuối cùng điều gì đã thuyết phục Perkins làm ngơ những hăm dọa và mua chuộc?
Câu trả lời vắn tắt là: đó là Jessica, người con gái của ông đã tốt nghiệp đại học và đã đi vào cuộc đời tự lập. Khi Perkins nói với Jessica ý định ông muốn xuất bản tác phẩm nói trên và tâm sự với cô về những lo sợ của ông, Jessica liền nói,
- "Ba đừng lo. Nếu họ giết ba thì con sẽ tiếp tục làm những gì còn dang dở. Chúng ta cần phải làm điều nầy cho các đứa cháu ngoại mà con hy vọng sẽ cho ra đời một ngày nào đó!"
Đó là câu trả lời ngắn. Phiên bản dài hơn liên quan đến quyết tâm của Perkins đối với quốc gia sinh thành của ông, đối với tình yêu dành cho những lý tưởng được biểu hiện bởi các Nhà Lập Quốc Hoa Kỳ, đối với sự gắn bó sâu sắc của ông với nền cộng hòa Hoa Kỳ hiện đang hứa hẹn "sự sống, tự do, và theo đuổi hạnh phúc" cho mọi người, mọi nơi; và cuối cùng đó là quyết tâm, sau âm mưu 9/11, không khoanh tay đứng nhìn trong lúc những tên sát thủ kinh tế biến nền cộng hòa nầy thành một đế quốc toàn cầu.
"The New confessions of an Economic Hit Man" là một câu chuyện có thực. Tác giả đã sống với nó từng phút từng giây. Tất cả những trực giác, con người, đối thoại, và cảm nghĩ được mô tả ở đây đều là một phần của cuộc đời của tác giả. Đó là chuyện cá nhân nhưng đã xảy ra bên trong khung tham chiếu của những biến cố thế giới lớn hơn có khả năng định hình lịch sử của chúng ta, đã đưa đẩy chúng ta đến hiện trạng hôm nay và đang làm nền tảng cho tương lai con cháu của chúng ta.
Mục đích của những sát thủ kinh tế là khuyến khích các lãnh tụ thế giới trở thành một phần của một mạng lưới bao la nhằm thăng tiến lợi ích thương mại của đám tài phiệt Do Thái. Cuối cùng, những lãnh tụ đó bị bẫy vào một lưới nợ để bảo đảm lòng trung thành của họ. Bọn lưu manh đầu sỏ có thể giật dây họ bất kỳ khi nào – để thỏa mãn những nhu cầu chính trị, kinh tế, hay quân sự. Đổi lại, đám lãnh đạo nầy khoa trương vị thế chính trị của họ bằng cách mang đến người dân của họ những đặc khu kỹ nghệ, những nhà máy điện, những phi trường, nhờ đó những công ty xây dựng của các tập đoàn tài phiệt Mỹ và Do Thái trở nên giàu có hơn nữa.
Nếu đám sát thủ kinh tế thất bại thì đám tay sai sẽ nhập cuộc. Và nếu những đám tay sai thất bại thì quân đội sẽ nhập cuộc.
Phiên bản mới "The New confessions of an Economic Hit Man" ra đời vì thế giới đã thay đổi triệt để. Hệ thống sát thủ kinh tế trước kia chỉ đặt nền tảng trên NỢ và SỢ HÃI. Ngày nay, hệ thống đó còn bịp bợm hơn nhiều so với năm 2004. Hệ thống đó đã nới rộng hàng ngũ một cách khủng khiếp và đang xử dụng những công cụ mới và những ngụy trang mới. Hoa Kỳ đã bị chúng đánh phá. Toàn bộ thế giới đã bị chúng đánh phá. Chúng ta biết rằng chúng ta đang bên bờ vực tai họa trên các phương diện kinh tế, chính trị, xã hội, và môi trường. Chúng ta đang sống trong một thời kỳ khủng hoảng khủng khiếp.
Nếu trước kia, đám thủ kinh tế chỉ gồm một nhóm nhỏ, thì nay những kẻ đóng vai trò tương tự lại đông đảo hơn nhiều. chúng đang hoành hành trong những hành lang của các công ty hàng đầu như Exxon, Walmart, General Motors, và Monsanto. Những công ty nầy đang xử dụng hệ thống sát thủ kinh tế để thăng tiến tư lợi của họ.
Tại sao Perkins không bị giết vì dám nói sự thật?
Câu trả lời sẽ lần lượt được trình bày trong bộ sách nhiều tập "Chủ Nghĩa Lưu Manh."

[<<< Top]

KỲ 3: Killing the Host: How Financial Parasites and Debt Bondage Destroy the Global Economy (Tiêu Diệt Môi Trường Chủ: Phương thức những ký sinh tài chánh và hậu quả nợ tiêu diệt Kinh Tế Toàn Cầu) - Michael Hudson

Tác giả là một kinh tế gia. Tác phẩm nầy cho thấy làm thế nào tài chánh, bảo hiểm, và địa ốc (real estate) đã nắm quyền kiểm soát kinh tế toàn cầu trên sự thiệt hại của chủ nghĩa tư bản kỹ nghệ và các chính phủ. Ba kỹ nghệ dưới một tên chung là FIRE (Finance, Insurance, and Real Estate) là nguyên nhân của hiện tượng phân cực kinh tế triệt để ngày nay (1% cực kỳ giàu có đối trước 90% còn lại), thông qua quy chế ưu đãi thuế nhằm bơm giá địa ốc trong khi triệt hạ nền kinh tế thực của lao động và sản xuất. Với những chi tiết hùng hồn, Hudson cho thấy vụ cứu nguy Great 2000 Bailout đã cứu những ngân hàng chứ không cứu kinh tế, và đã đẩy các nền kinh tế của Hoa Kỳ, Latvia và Hy Lạp vào tình trạng giảm phát nợ và khắc khổ. Tác phẩm nói trên cho thấy làm thế nào hiện tượng giảm phát nợ đã áp đặt tình trạng khắc khổ lên các nền kinh tế Hoa Kỳ và Âu Châu, rót của cải và lợi tức vào khu vực tài chánh trong khi bần cùng hóa giai cấp trung lưu.
Tài sản của giới 1% đến từ giới 99%. Giới 99% làm giàu cho giới 1%. Có nhiều cách để chuyện nầy xảy ra, chẳng hạn như lương thấp và giá bán cao. Nhưng ngày nay càng ngày giới 99% càng phải xén bớt tài sản của họ để trả nợ. Để có được một cuộc sống đàng hoàng, giới 99% - hay ít nhất hai phần ba của giới nầy đang vay nợ - phải trả dứt nợ và tiền lời cho tiền học, tiền mua nhà hay cơ sở tiểu thương, mua xe, và tiền thẻ tín dụng. Chuyện làm thuê trả nợ đã có từ ngàn xưa, xưa hơn cả thời cách mạng kỹ nghệ, và biểu mẫu nầy đang trở thành thịnh hành hơn mỗi ngày.
Kể từ cuộc khủng hoảng địa ốc năm 2008, hàng triệu người ở Hoa Kỳ và khắp thế giới đã phá sản, mất nhà, và mất việc. Ngày nay, nhiều người khác đang lâm vào tình trạng bế tắc tài chánh. Quá nhiều người tự trách mình, cứ nghĩ có một cái gì không đúng trong khả năng và ý chí của mình. Nếu họ hiểu được hệ thống kinh tế, chính trị, và tài chánh trong đó họ sống, thì có lẽ họ sẽ không tự trách và chúng ta có thể tìm ra một giải pháp tập thể cho những vấn đề của chúng ta.
Michael Hudson là một giáo sư nghiên cứu về kinh tế tại đại học Missouri, Kansas City. Nhóm kỹ nghệ bộ ba FIRE cùng với âm mưu độc quyền kiểm soát tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ và khí đốt chính là loại ký sinh trùng. Ngân hàng (hay Wall Street), chẳng hạn, là nhân tố chủ lực trong những lực ký sinh. Môi trường chủ cho loại ký sinh đó chính là nền kinh tế lợi ích như sản xuất và nông nghiệp và những dịch vụ cần thiết như y tế và giáo dục. Donald Trump có lúc giả vờ tuyên chiến với Wall Street, nhưng đó là một trong những đoàn ảo tinh vi của Trump. Nếu không có Wall Street chống lưng thì làm sao Trump có thể trở thành tỉ phú đừng nói là trở thành tổng thống Mỹ? Thê thảm hơn nữa là sự kiện, như trong sinh vật học, một loại ký sinh thành công trong việc cấy những vi sinh cải tạo hành vi (behavior-modifying enzymes) vào môi trường chủ, khiến môi trường chủ cứ tưởng ký sinh đó là một phần của chính nó nên không cố đối kháng. Trong trường hợp nầy, vi sinh cải tạo hành vi là một tập hợp những ngụy thuyết khống chế những phân khoa kinh tế trong các đại học hàng đầu của Hoa Kỳ. Hudson gọi những ngụy thuyết nầy là "junk economics" (ngụy thuyết kinh tế), đôi khi cũng được gọi là "neo-liberalism".
Những chính trị gia và chuyên viên kỹ thuật như Geithner, Summer, Greenspan, Rubin, Clinton, và Obama ứng dụng những tư tưởng nầy bên trong chính phủ của nền kinh tế môi trường chủ. Các ngân hàng hiện kiểm soát chính sách kinh tế và tài chánh của Hoa Kỳ. Quốc gia nầy không còn là một nền dân chủ hàng đầu, mà là một tập đoàn tài phiệt (oligarchy).
Tại Hoa Kỳ, hiện có $11.8 ngàn tỉ (trillion) nợ tư – nợ nhà, nợ học, nợ xe, nợ tiêu dùng. Đó là tổng phí và khiến giá nhà, tiền học, xe, hàng tiêu dùng cao hơn. Hudson gọi hiện tượng nầy là "asset-price inflation." Hudson gọi hiện tượng nầy là "debt deflation." Chính nợ tư, chứ không phải nợ chính phủ, đang gây thiệt hại cho nền kinh tế Hoa Kỳ. Lập lờ giữa hai loại nợ nầy là những ý tưởng chính của ngụy kinh tế (junk economics). Người ta tự hỏi, bạn có phải lo chuyện trả nợ nếu bạn có thể in được tiền? Đó là khả năng tạo ra tiền mới giúp một siêu cường như Hoa kỳ rất khác với một gia đình tư nhân. Sự kiện nợ tư quá đà là bằng chứng cho thấy rằng, sau mỗi chu kỳ kinh tế kể từ cuối Đệ Nhị Thế Chiến, nợ tư ở Hoa Kỳ đã gia tăng và mỗi đợt phục hồi đều yếu kém hơn. Theo ẩn dụ về ký sinh và môi trường chủ, một khái niệm khác về ngụy thuyết kinh tế là không đếm xỉa gì đến sự khác biệt giữa, một bên là sản xuất như kỹ nghệ và nông nghiệp hay những dịch vụ nhu yếu như y tế và giáo dục, và bên kia là thanh toán lãi nợ cho các ngân hàng tư nhân. Nếu gọi cả hai phương diện trên là "làm giàu (wealth creation)" thi sẽ khiến người ta hiểu lầm, đặc biệt những sinh viên kinh tế và công chúng do truyền thông tác động. Xu thế đó đưa đến một chính sách xấu như khấu trừ thuế theo lãi nợ (tax deductibility of interest) và ưu đãi thuế cho lợi tức vốn (tax favoritism of capital gains). Khái niệm chủ yếu thứ ba về ngụy thuyết kinh tế là: những gì người ta có được trong xã hội cũng đều là một đo lường về đóng góp cho tài sản xã hội. Hudson cho biết rằng, Obama đã chủ tọa cho một cuộc đảo chánh của đám tài phiệt. Ông đã bị Geithner và Summers thuyết phục rằng, sau vụ sụp đổ của Lehman Brothers, nếu những ngân hàng lớn khác của Wall Street và các quỹ hedge funds cũng bị sụp đổ, thì kinh tế thế giới sẽ sụp đổ. Nhưng có một giải pháp thay thế cho chính sách cứu nguy. Bộ Tài Chánh lý ra đã có thể nắm quyền kiểm soát các ngân hàng mất khả năng chi trả và có thể kiềm chế chúng lại giống như đã làm sau cuộc khủng hoảng tài chánh trong thập niên 1980 và 1990.
Lý ra Cơ Quan FBI và SEC (Securities and Exchange Commission) đã có thể tiếp tục điều tra những âm mưu cho vay gian lận rộng khắp như sự kiện những ngân hàng cho vay, nhờ sự khuyến khích của các ngân hàng Wall Street, đã phạm tội gian giận bằng cách cho vay những người mà họ biết không có khả năng trả nợ, đặc biệt sau khi lãi suất được nâng cao hơn sau một vài năm. Tuy nhiên, chính quyền Obama tiếp tục chính sách của Bush nhằm ngăn chặn những cuộc điều tra của FBI. Do đó, chính phủ đã cứu nguy những tay đầu cơ phát đạt với những chứng khoán phái sinh không điều tiết (unregulated derivatives) mà Warren Buffet, một trùm tỉ phú gốc Do Thái khét tiếng cũng phải thú nhận là một "vũ khí tài chánh sát hại hàng loạt (financial weapons of mass destruction)." Ngay cả những ngân hàng không có khả năng chi trả, nhất là Citibank và Goldman Sachs, vẫn có thể hoạt động bình thường.
[<<< Top]

KỲ 4: The Octopus of Global Control (Con Bạch Tuộc Bá Chủ Thế Giới) của Charlie Robinson

Đây là một tác phẩm gây nhiều tranh cãi, đưa ra những chi tiết cho thấy làm thế nào những người có quyền hành có thể thao túng xã hội để trục lợi, tại sao họ tin rằng họ có tư cách để áp đặt lên nhân loại thế giới quan méo mó của họ về thực tại, và làm thế nào chúng ta có thể thoát được nanh vuốt của họ. Tám thủy túc kiểm soát đang siết quanh nhân loại là Quân Đội, Chính Phủ, Bưng Bít, Vật Chất, Tài Chánh, Truyền Thông, Giáo Dục, và Khoa Học. Tác phẩm đề cập đến những chủ đề như Nhà Nước Chìm, những biến cố khủng bố dàn dựng, vụ lừa bịp 9/11, gian lận của ngân hàng trung ương, hệ thống giáo dục thối nát, xử dụng tôn giáo để định hình xã hội, và kỹ nghệ y khoa thối nát.
"The Octopus of Global Control" trình bày những biến cố quan trọng nầy bằng cách đưa ra những dẫn chứng và quan sát trực tiếp của hơn 500 nhân chứng và những người tham gia đã từng dính líu trong những biến cố quan trọng trong lịch sử Hoa Kỳ. Những nhận định của họ đưa thêm khung tham chiếu và giúp minh họa bức tranh về những biến cố lịch sử đó bằng cách giải thích những người đó là ai, họ nói gì, tại sao lại quan trọng, và những gì đã thực sự xảy ra.
Khi đọc hết "The Octopus of Global Control," có thể chúng ta mong sao đó không phải thực trạng của thế giới ngày nay, nhưng... tính thuyết phục của tác phẩm khó có thể bị phủ nhận. Đó là sự kết nhập tuyệt diệu những trực quan từ những nhà lãnh đạo có tư duy quen thuộc với khá nhiều người. Tác phẩm cho thấy một số đặc trưng về âm mưu Trật Tự Thế Giới Mới của Do Thái. Xin đừng quên Do Thái là một chủng tộc trời đày vô gia cư. Khi họ kêu gọi một trật tự mới, kêu gọi thế giới đại đồng, cộng sản quốc tế, đó chỉ có nghĩa là các quốc gia quy ước phải tự mình xóa bỏ biên giới và chủ quyền của chính mình để trở thành vô gia cư như Do Thái. Họ liên tục dàn dựng chiến tranh và bạo động trên hành tinh, vì họ vô gia cư nên chỉ được mà không mất gì cả.
[<<< Top]

KỲ 5: New World Order Assassins (Sát Thủ Trật Tự Thế Giới Mới) - Victor Thorn

Đó là những gì xảy ra phía sau những câu chuyện khét tiếng nhất trong thế giới của những tên sát nhân, sát thủ, những giáo chủ ma đạo Do Thái, những tên bắn giết học sinh, và những sát nhân chính trị máu lạnh. Trong công trình mới nhất nầy, với tư cách một phóng viên điều tra dũng cảm vô song của AFP, Victor Thorn phơi bày 16 trường hợp nổi bật nhất đã từng gây sửng sốt cho công chúng Hoa Kỳ và thế giới trong 50 năm qua.
"New World Order Assassins" đi sâu vào những chi tiết đã từng bị ém nhẹm bởi những cơ quan chính phủ và truyền thông chính dòng của Do Thái. Quan trọng hơn, tác giả đưa ra những kết luận vượt trội những kết luận từng được những nhà khảo cứu về âm mưu đã đưa ra trước đó. Kết quả sẽ khiến độc giả không những phải thẩm định lại các biến cố hàng đầu của lịch sử của chúng ta mà còn phải thẩm định lại những thế lực khát máu phía sau chúng, nguyên nhân của những vụ ám sát tổng thống và những khuôn mặt chính trị đi ngược với quyền lợi của chúng – tất cả chỉ để thăng tiến nghị trình độc ác của chúng. Thorn phơi bày một kho tàng cấm sử trong một tác phẩm đang làm rung chuyển nền tảng của văn hóa quần chúng Hoa Kỳ. Thorn từng bước đưa độc giả lặn xuống một cái hang sâu để đi vào một lãnh địa mà đa số người không hề biết. Tác phẩm của ông tràn đầy những bí mật đã bị mất từ lâu, những bí mật mà có lẽ Đại Đồng Chí trong bộ phim "1984" của George Orwell chắc chắn đã trút xuống hố quên lãng. Thorn không hề sợ đề cập đến những đề tài cấm kỵ hay không ngần ngại tiêu diệt những con bò thiên yếu quý nhất của chính phủ.
Tựa đề thực của cuốn "New World Order Assassins" lý ra là "The Real People's History of the United States." Thorn trình bày một cách chi tiết hàng chục sự kiện bị bưng bít liên quan đến những vụ ám sát khét tiếng nhất của thế kỷ 20, nhất là những vụ xảy ra giữa năm 1962 và 1999. Trong vai trò một phóng viên điều tra không khoan nhượng, Victor Thorn chứng minh rằng những gì chúng ta nghĩ là chúng ta biết, thực sự chúng ta không biết gì cả. Đây là một trong những kết luận tất yếu: không một vụ ám sát nào trong số những vụ ám sát đó được tiến hành theo cách chúng ta thường nghĩ, mà, thay vì thế, chúng hoàn toàn được đạo diễn bởi giai cấp quyền quý chóp bu, tức một đội hành quyết của âm mưu Trật Tự Thế Giới Mới của Do Thái. Thorn phơi bày những vụ giết người khét tiếng nhất trong thời đại chúng ta, bắt đầu với vụ bịt miệng nữ minh tinh màn bạc Marilyn Monroe và chấm dứt với vụ thảm sát hàng loạt tại Trường Trung Học Columbine High School. Mọi vụ giết người như thế đều có sự bưng bít hay xuyên tạc của truyền thông. Mỗi chương sách của Thorn đều trưng ra hàng chục sự kiện bị ém nhẹm, cho phép độc giả dễ dàng nhận diện những liên quan chung giữa tất cả chúng, những tương đồng và biểu mẫu chung của chúng, những công cụ sát nhân của các đội hành quyết bí mật, những kỹ thuật kiểm soát não bộ (mind control techniques) như thôi miên, và tẩy não trên những tên khờ bị sai khiến. Thorn đưa độc giả đến một lối nhìn hoàn toàn mới về những biến cố quan trọng nầy trong khi ông thể hiện một sự mỉa mai đối với hệ thống truyền thông thối nát bị kiểm duyệt và rất được nhiều người ở Hoa Kỳ nhắm mắt nghe theo. Trên mỗi biến cố quan trọng như Malcolm X, Martin Luther King, Sirhan Sirhan, John Lennon, Princess Diana, Son of Sam…, Thorn dứt khoát chứng minh rằng mọi thứ chúng ta biết đều sai. Những tay sát thủ của Trật Tự Thế Giới Mới sẽ làm hầu như mọi thứ để thăng tiến quyền lợi của giai cấp quyền quý Do Thái và tay sai, đồng thời liên tục hâm nóng bộ máy chiến tranh.
Khó mà nhìn lịch sử chính thức qua bất kỳ một lăng kính khả tín nào sau khi đọc tác phẩm nói trên của Victor Thorn; và tình trạng càng khó hơn với các hệ truyền thông của những cộng đồng thiểu số như công đồng Người Việt, chẳng hạn. Hệ truyền thông nầy thực chất chỉ là những chiếc loa con vẹt, tán hươu tán vượn theo kiểu mẹ hót con vỗ tay, không giúp ích gì cho kiến thức chính trị mà chỉ làm tăng thêm độ dày của chủ nghĩa ngu dân và kiểm soát não bộ. Rõ ràng sự cấu kết giữa chính phủ Hoa Kỳ và sức mạnh truyền thông chính dòng của Do Thái đưa đến không gì khác hơn là láo khoét trắng trợn nhằm bưng bít những vụ ám sát tổng thống, ám sát những lãnh tụ dân quyền, các nhà đấu tranh và những khuôn mặt văn hóa bình dân khác thường bị xem là một thách thức tiềm năng đối với giai cấp quyền quý chóp bu Do Thái. Khi nhìn lại 50 năm của những thời kỳ rối loạn nhất của Hoa Kỳ, Thorn cung ứng một cái nhìn hoàn toàn khác về những biến cố then chốt như vụ thảm sát Kent State, một cái nhìn không chỉ mang tính thông tin mà còn mang tính giải trí nữa, không chỉ mang lại quy mô rộng lớn về những dữ liệu tăm tối mà còn là những mặc khải mang tính bùng nổ. Không cần phải mất nhiều thời gian người ta mới nhận ra mối liên quan gắn liền những biến cố nghiêm trọng nầy. Theo nghĩa nầy, cuốn sách New World Order Assassins đề cập đến nhiều trình độ khác nhau bằng cách liên kết không chỉ những nạn nhân mà còn những ai tựu trung đã điều khiển những tên sát thủ có tầm vóc quốc tế đó. Trong khi truyền thông thối nát của Do Thái, thậm chí cho đến ngày nay, vẫn tiếp tục quy những hành động sát nhân đó cho những tên khùng hành động một mình, rõ ràng đó là một mạng lưới phức tạp của ảo tưởng đã được tạo ra để bảo vệ những bên liên quan – những bàn tay vấy máu. Bất luận hiện trường được xem xét thuộc về trường hợp của John F. Kennedy, Ronald Reagan, John Lennon hay Malcolm X, tác phẩm của Victor Thorn cho thấy cùng một băng đảng tội phạm thuộc chủ nghĩa lưu manh toàn cầu hóa đứng phía sau những âm mưu thành công hay không thành công nầy nhằm loại bỏ những nhân vật trên. Không như những tác giả hay cơ quan truyền thông khác chỉ nói một cách chung chung mà không nêu đích danh một ai, Thorn thẳng thừng nêu tên những bên liên hệ, từ J. Edgar Hoover xuống đến nhà nước tội phạm Israel. Cũng như phần lớn những tác giả được tham chiếu trong sách nầy, Victor Thorn cung ứng một cái nhìn mới vào lịch sử thế kỷ 20; họ không ngần ngại đi vào cấm địa chính trị. Trong một thế giới giao thông mạng, trong đó tất cả chúng ta đều bị tràn ngập bởi quá nhiều thông tin, tác phẩm của những tác giả nầy đến với độc giả như những luồng sinh khí mới mẻ và mãnh liệt như tia sáng laser, không hề nao núng hay né tránh phơi bày đám sát thủ hưởng lương của gia cấp quyền quý Do Thái, một giai cấp, khi bị đe dọa, không ngần ngại giết chết những ai có thể ngăn cản nghị trình độc ác của họ.
[<<< Top]

KỲ 6: Everything They Ever Told Me was a Lie (Mọi thứ họ nói với tôi đều láo khoét cả) - Pat Shannon

Quả thực tệ hại khi chúng ta không thể tin những chính trị gia nói với chúng ta sự thực – một vấn đề thời đại. Khi truyền thông chính dòng không những không điều tra mà còn tiếp tục duy trì những dối trá đó, ngay cả sau khi những sự kiện được báo cáo đã bị chứng minh là sai, thì cuối cùng toàn bộ quốc gia có thể bị một đám thiểu số làm cho hoàn toàn hoang mang. Tác phẩm của Pat Shannan cung ứng những ví dụ về vô số những câu chuyện trong hậu trường và cho thấy làm thế nào hầu như mọi câu chuyện quan trọng đều được đạo diễn cẩn thận để làm lợi có giai cấp quyền quý Do Thái, trên sự thiệt hại của phần còn lại trong xã hội lý ra là những người làm chủ quốc gia.
Đối với Shannan, không có một đề tài nào được xem là cấm kỵ. Trong tác phẩm nầy, ông đề cập những câu chuyện bưng bít của truyền thông chính dòng liên quan đến một số biến cố lớn nhất của thế kỷ 20 và sau đó cung ứng cho chúng ta Câu Chuyện Thực. Ông xem xét những câu chuyện hàng đầu nầy và nhiều chuyện khác nữa, như:
- Khác biệt giữa tiền tệ hợp pháp (lawful money) và tiền giả của Quỹ Dự Trự Liên Bang (FED);
- Quá khứ không xác minh được của Barack Obama,
- Thực sự có hai Oswalds;
- Liên hệ họ hàng mật thiết giữa George H. W. Bush với tên sát nhân cố giết Ronald Reagan;
- Những thế lực tay trong cùng hoạt động với những tên đánh bom ở Oklahoma City;
- Thú nhận khủng khiếp của Lyndon B. Johnson với tình nhân của ông liên quan đến sự dính líu của ông trong vụ ám sát Kennedy;
- Kế hoạch gài James Earl Ray, Sirhan Sirhan, L. Harvey Oswald;
Khi nói về chiến tranh của nhân loại, có người trước đây đã nói, “Kẻ thắng cuộc viết lịch sử.” Nếu thế thì bọn nói láo sẽ tiếp tục thắng cho đến khi những nhà văn như Pat Shannan xuất hiện để phơi bày những trò nói láo đó và thay chúng bằng sự thật.
[<<< Top]

KỲ 7: None Dare Call it Conspiracy (Chẳng ai dám gọi đó là âm mưu)- Gary Allen & Larry Abraham

Tác phẩm nầy đã làm định chế chính trị Tây Phương nổi giận. Gary Allen và Larry Abraham phơi bày rất nhiều uẩn khúc trong lịch sử bí ẩn bên dưới và những nghị trình nắm quyền kiểm soát tiến trình chính trị của Hoa kỳ và đa số phần còn lại của thế giới. Thông tin của cuốn sách gây nhiều ngạc nhiên và dường như có vẻ viễn vông đối với những ai chưa quen thuộc với chính trị đen. Tuy nhiên, thông tin đó chính xác và rất có cơ sở.
Tác phẩm đào sâu vào thông tin lịch sử nhằm giải thích những nghị trình của giai cấp quyền quý Do Thái toàn cầu ít ai biết đến. Điều ngạc nhiên đối với mọi người là cuốn sách cho thấy làm thế nào bọn tay trong của giai cấp quyền quý nầy từ trước đến nay đã bí mật thiết lập và sau đó hỗ trợ các Chủ Nghĩa Cộng Sản toàn trị ở Nga, Trung Quốc, và đa số phần còn lại của thế giới. Tác phẩm cũng giải thích tại sao những triết lý toàn cầu hóa hiện được tiến hành nhằm kêu gọi một hệ thống chính phủ đồng dạng tương tự sẽ được áp đặt lên toàn bộ các quốc gia trên hành tinh theo cái mệnh danh là Trật Tự Thế Giới Mới của Do Thái du thủ du thực, trời đày vô gia cư, đang ngày đêm biến các dân tộc khác trên hành tinh trở thành vô gia cư như Do Thái.
[<<< Top]

KỲ 8: Tragedy and Hope 101: The Illusion of Justice, Freedom, and Democracy (Bi Kịch và Hy Vọng 101: Ảo Tưởng Công Lý, Tự Do, và Dân Chủ)- Joseph Plummer

Thông tin chứa đựng trong tác phẩm nầy phản chứng mọi thứ mà bạn được thuyết phục tin theo về dân chủ và "chính phủ đại diện."
Dựa trên công trình nghiên cứu rúng động của sử gia Carroll Quigley, sách "Tragedy and Hope 101" – qua trình bày và tóm lượt của Joseph Plummer - phơi bày một hệ thống chính trị quỹ quyệt không thể tưởng tượng nổi, bị thao túng một cách khéo léo bởi một thiểu số quyền quý gốc Do Thái đang cố triệt hạ tự do và dân chủ như chúng ta biết. Theo Quigley, mục tiêu của đám thiểu số đang kiểm soát hệ thống là đô hộ tất cả những vùng thổ cư của thế giới. Thông qua lừa bịp, đánh cắp, chiến tranh, và bạo động, chúng đã đạt được nhiều thành tựu hơn so với bất kỳ giai cấp thống trị nào khác trong lịch sử nhân loại.
Tuy nhiên, Thời Đại Tin Học đang nhanh chóng phơi bày những âm mưu của chủ nghĩa lưu manh. Tính vô đạo đức trong hệ thống của họ và của những ai đang phục vụ họ không còn có thể che đậy được nữa. Sự thức tỉnh và đối kháng đang gia tăng... Thảm kịch đang nhường bước cho hy vọng.
Nếu nhìn kỹ đám ma thuật đang làm trò thì bạn nhận thức được khả năng đánh lạc hướng và tài nghệ phù phép của chúng. Ngay cả trong một căn phòng đầy những người quan sát đa nghi và chăm chú, bọn ma thuật vẫn có thể đánh lừa tất ca họ như thường. Nhờ khai thác những nhược điểm quen thuộc trong đầu óc con người và xử dụng những công cụ lái buôn, chúng đánh lừa quần chúng, dù họ có muốn bị đánh lừa hay không.
Chúng ta thử tưởng tượng những gì một mạng lưới tinh vi không kém gồm những ảo thuật gia chính trị có thể hoàn thành khi họ biểu diễn trước một đám cử tọa phần lớn gồm những khán giả ngây thơ và cả tin.
Muốn hiểu biết thế giới thực ngày nay, chúng ta cần biết Carroll Quigley là ai và những chiêu thuật lừa bịp ông phơi bày là gì. Nhờ những liên hệ mật thiết với cái mệnh danh là "The Network" của Do Thái và sự đồng thuận của ông đối với những mục đích của mạng lưới nầy nên ông có thể cung ứng một phân tích của người tay trong về những phương pháp của giai cấp Do Thái quyền quý toàn cầu. Nếu không có sự hiểu biết nầy thì khó có thể hiểu được những hành động của những kẻ đang đứng đầu chính phủ Hoa Kỳ và Tây Phương. Kiến thức đó sẽ giúp tạo nên một bức tranh toàn cảnh nằm bên dưới bức tranh ma thuật của truyền thông chính dòng của Do Thái.
Xin lưu ý một điều. Cuộc hành trinh mà bạn đang sắp thực hiện không dành cho những kẻ yếu bóng vía. Nếu bạn cảm thấy yên ổn với những ảo tưởng hiện được xem như thực thể chính trị thì bộ sách "Chủ Nghĩa Lưu Manh" không dành cho bạn, vì, một khi bạn đã khám phá những tay ảo thuật làm trò như thế nào thì bạn sẽ không thể yên ổn với sự dốt nát nữa. Một khi chuông đã gióng lên rồi, không ai có thể thu hồi tiếng chuông trở lại.
[<<< Top]

KỲ 9: The Ruling Elite: The Zionist Seizure of World Power - Deanna Spingola

Theo Deanna Spingola, chính phủ Hoa Kỳ đồng lỏa với những tập đoàn tài phiệt cấu kết nhau rất chặt chẻ, kể từ cái mệnh danh là Civil War (Nội Chiến Hoa Kỳ). Chính phủ nầy đã tiếp tục phát động chiến tranh và phá hoại. Cái mệnh danh là "Revolutionary War" của Abraham Lincoln, với sự hậu thuẫn của Marx và Engels, đã khiến ít nhất từ 618,222 đến 700,000 người chết, kể cả 50,000 thường dân thuộc phe ly khai. Những binh sỹ nào chiến đấu, giết và bị giết trong cuộc chiến đó đều đã được huấn luyện cho những cuộc chiến tương lai. Nếu người Mỹ có thể giết những đồng bào của họ được thì họ cũng sẽ xử dụng sức mạnh để chống lại các quốc gia nước ngoài, nhân danh chính phủ.
Cuộc chiến nầy báo trước chiến tranh toàn cầu theo sau đó như Chiến Tranh Hoa Kỳ/Tây Ban Nha, hai Đại Thế Chiến, Chiến Tranh Cao Ly, Chiến Tranh Việt Nam, Chiến Tranh Vùng Vịnh và Chiến Tranh Trung Đông hiện nay. Đó là chưa kể cuộc oanh tạc ở Baltic và những nơi khác hay những cuộc chiến bí mật của CIA, trong đó hàng triệu người đã chết. Trong Đệ Nhất Thế Chiến, có khoảng 9,911,000 người chết, 21,219,500 người bị thương, và 7,750,000 người mất tích, nâng tổng số lên 38,880,500. Trong Đệ Nhị Thế Chiến, có 24,000,000 binh sỹ và 49,000,000 thường dân bị giết, nâng tổng số lên 73,000,000, không kể số người bị thương và mất tích. Hai Đại Thế Chiến đã khiến 82,911,000 người chết. Câu hỏi thực sự là TẠI SAO? Dứt khoát bọn Do Thái trời đày vô gia cư đã đứng ngoài giật dây cho phần còn lại của nhân loại tha hồ giết nhau. Bọn nguyên thủ quốc gia trên thế giới đã tự biến mình thành những con cừu ngu xuẩn để cho bọn Do Thái xỏ mũi dắt đi và tàn sát đồng loại. Thế giới càng hỗn loạn và chết chóc bao nhiêu thì Do Thái càng có cơ may làm bá chủ thế giới, để từ một chủng tộc vô gia cư biết đâu chúng chẳng có cơ may trở thành chủ nhân ông cả hành tinh?
Cái mệnh danh là "Revolutionary War" của Lincoln chẳng qua là một cuộc tấn công của Miền Bắc chống miền Nam Hoa Kỳ. Cuộc chiến đó đã khiến 622,000 thường dân bị giết và làm thay đổi cơ cấu chính phủ. Marx và Engels đứng từ xa theo dõi cuộc chiến và vỗ tay hoan hô những công trạng của Lincoln. Truyền thông và hệ thống giáo dục do chính phủ kiếm soát đã đưa ra một quan điểm bịp bợm về mỗi biến cố lịch sử và đã tẩy uế những lãnh tụ chính trị tai tiếng nhất và hạ nhục những lãnh tụ đã từng tranh đấu cho những lý tưởng tốt đẹp nhất của dân chúng Hoa Kỳ.
Theo sau biểu mẫu chiến tranh do Lincoln thiết lập, Hoa Kỳ đã không ngừng phát động chiến tranh. Những thanh niên Hoa Kỳ, nam và nữ, đã đổ máu ở nước ngoài trong khi những tập đoàn tài phiệt Do Thái cấu kết nhau làm giàu nhờ vào những “công trình tái thiết”– như của Dick Cheney – dành cho những cơ sở hạ tầng mà các tập đoàn tài phiệt Do Thái khác đã phá hủy. Trong khi đó, nhờ có được hiểu biết tay trong, những chính trị gia của Hoa Kỳ trở nên giàu có hơn qua những đầu tư của họ và qua những khối tiền hối lộ mà họ nhận từ những tổ chức vận động hành lang hào tiền, chủ yếu là Do Thái.
Vào năm 2010, Ngũ Giác Đài đã chỉ trả những khoản tiền dưới đây cho 5 trong số 100 tập đoàn chóp bu:
(1) Lockheed Martin Corp: $16,700,588,328;
(2) Northrop Grumman Corp: $11,145,533,497;
(3) Boeing Co: $10,462,626,196;
(4) Raytheon Co: $6,727,232,555;
(5) Science Applications International Corp.: $5,474,482,583.
Hơn nữa, khắp Hoa Kỳ, cơ sở hạ tầng then chốt của Hoa Kỳ đang sụp đổ; và các chính trị gia hiện đang bán những tài sản công cộng do người thọ thuế tài trợ cho những tập đoàn tư nhân như một hình thức kinh doanh lấy lời.
Từ nhiều thập niên nay, họ không hề lắng nghe cử tri. Để phục vụ các tập đoàn tài phiệt Do Thái, những tên lưu manh CIA tiến hành các hoạt động khủng bố nhắm vào những quốc gia mà chính phủ Hoa Kỳ và truyền thông chính dòng của Do Thái quy cho những thành phần mà họ gọi là nổi loạn.
[<<< Top]

KỲ 10: Partners in Crime: The Clintons' Scheme to Monetize the White House for Personal Profit (Đồng phạm: Kế sách Clinton nhằm kim ngân hóa Bạch Cung để trục lợi) - Jerome Corsi

Tác phẩm nầy trình bày công trình nghiên cứu tường tận và bằng chứng chuyên gia, dứt khoát cho thấy rằng Cơ Quan "bất vụ lợi" Clinton Foundation là một âm mưu tội phạm quy mô, được mô tả như một "slush fund for grifters" (quỹ ma của bọn lưu manh).
Corsi cho thấy vợ chồng Clinton đã thu tóm hàng trăm triệu dollars vào tư túi ra sao trong khi xây dựng một đế quốc trị giá hai tỉ trong cơ quan Clinton Foundation. Nạn nhân là hàng ngàn người lương thiện đã đóng góp tiền mồ hôi nước mắt của họ cho những mục đích mà họ nghĩ là nhân đạo. Kịch bản khốn nạn nầy dính líu đến những thủ thuật kế toán gian lận giống như trường hợp Enron, và được thực hiện qua hệ thống tư vấn đa quốc PricewaterhouseCoopers, một xí nghiệp Tứ Đại (Big Four), cũng như một số tập đoàn bình phong và những trương mục ngân hàng trung gian mà Bill Clinton đã bí mật thiết lập nhằm che đậy những khoản tiền đút lót của những người đóng góp và đỡ đầu cho Cơ Quan Clinton Foundation.
Trong tác phẩm nầy, Corsi cung ứng độc giả những tên tuổi và địa chỉ của các bộ trưởng tư pháp tiểu bang khắp Hoa Kỳ, giải thích rằng những người đóng góp cho Cơ Quan Clinton Foundation được quyền đưa đơn khiếu tố lên bộ trưởng tư pháp tiểu bang sở tại. Bất kỳ một bộ trưởng tư pháp nào trong bất kỳ tiểu bang nào ở Hoa Kỳ đều có thể xin lệnh của thẩm phán tiểu bang nhằm yêu cầu tạm thời đình chỉ hoạt động của Cơ Quan Clinton Foundation trên toàn quốc để thẩm phán có thì giờ cần thiết nhằm tiến hành một cứu xét pháp lý chu đáo về tội gian lận từ thiện của gia đình Clinton được thực hiện không những trong tiểu bang liên hệ mà cả trên toàn cầu.
Theo luật tiểu bang, một bộ trưởng tư pháp có thể xin lệnh của một tòa án tiểu bang nhằm tạm thời đặt Cơ Quan Clinton Foundation và những chi nhánh của nó dưới quy chế giám hộ cho đến khi cuộc điều tra kết thúc.
[<<< Top]

KỲ 11: The Bush Crime Family: The Inside Story of an American Dynasty (Dòng họ tội phạm Bush: Nội tình của một triều đại Mỹ) - Roger Stone & Saint John Hunt

Tác phẩm nầy đánh thẳng vào những hệ tầng nói láo và bưng bít đã bao quanh và bảo vệ triều chính thành công nhất của Hoa Kỳ gần hai thế kỷ. Roger Stone lên án gắt gao triều chính nầy và phơi bày lai lịch đích thực và chân tướng đạo đức giả khủng khiếp của gia đình cha con Bush. Với ngòi bút sắc bén và công phá, Stone phơi bày một lịch sử trần truồng của gia đình Bush, lịch sử của buôn lậu, của những tay trưởng giả có máu mặt vừa đánh vừa lẫn trốn phía sau cái bình phong gia tộc của họ. Gia đình Bush đã ném mùi thất bại và nhục nhã chua cay khi kế hoạch tranh cử tổng thống của Jeff Bush năm 2016 tan thành mây khói.
Stone trình bày cặn kẽ quá trình lặp đi lặp lại những hành vi sai trái của Jeff, kể cả việc nhận tiền cứu nguy $4 triệu của người thọ thuế khi bố ông còn là phó tổng thống cũng như sự cấu kết mật thiết đáng kinh ngạc của ông với Hillary Clinton, được giả định là kẻ thù của họ. Ngoài ra, Stone đã đi ngược về từ những quan thầy của Bush như Samuel và Prescott đến tổng thống Bush cha và tổng thống Bush con – tất cả đã minh họa một lý lịch khủng khiếp về đặc quyên đặc lợi, tham ô, thối nát, buôn lậu ma túy, ám sát, và nói láo. Tác phẩm còn cung ứng thông tin mang tính bùng nổ liên quan đến kế hoạch lưu manh của gia đình Bush nhằm chuẩn bị cho con trai của Jeb Bush là George Prescott Bush trở thành chính trị gia kế tiếp của gia đình.
-Texe Mar nói gì về dòng họ Bush
Trong tác phẩm Conspiracy World, Texe Mar phơi bày sự kiện một số trùm Do Thái và dòng họ Bush đã đánh cắp các bí mật chế tạo bom nguyên tử của Hoa Kỳ để trước tiên trao cho Nga cộng sản và sau đó cho Israel và Trung Cộng. Bọn trùm Do Thái nầy bao gồm vợ chồng Rosenbergs, Ted Hall, Oppenheimer, và nhiều tay khác.
Ted Hall là một người Do Thái sống ở Anh và hiện bị bệnh Parkinson và ung thư thận. Đầu tiên Hall là một nhà vật lý của Đại Học Harvard, được Hoa Kỳ tuyển dụng vào năm 1944 để phục vụ cho Dự Án Manhattan Project tối mật. Chính Hall đã trao cho các đồng chí cộng sản của y một sơ đồ chi tiết về bom nguyên tử.
Oppenheimer cũng là một người Do Thái và là giám đốc Dự Án Los Alamos Manhattan Project, đồng thời là một cảm tình viên cộng sản. Oppenheimer thừa biết âm mưu khét tiếng của Hall. Về sau, cá nhà khoa học Mỹ gốc Do Thái trách nhiệm về những bí mật bom nguyên tử của Hoa Kỳ đã phạm tội chuyển giao kỹ thuật bom nguyên tử cho Thủ Tướng Israel, Ben Gurion. Tiểu quốc nầy đã xây dựng được một kho nguyên tử với hơn 400 quả bom nguyên tử nhờ vào những bí mật đánh cắp của Hoa Kỳ
Nhưng những kẻ cắp không chỉ có thế. Cơ quan tình báo Mossad của Israel liên tiếp trao cho Trung Cộng những bí mật đánh cắp của Hoa Kỳ về bom nguyên tử.
Dân chúng Hoa Kỳ không hề hay biết Israel và Trung cộng đã hợp tác với nhau từ nhiều thập niên. Bọn xã hội chủ nghĩa và bọn cộng sản trợ giúp lẫn nhau. Từ trong trứng nước, Israel đã là một nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Riêng về bộ ba Bush, Robertson, và Trung Cộng: Âm mưu phản trắc tiếp tục không ngừng. Tuy nhiên, trước khi vạch mặt Israel, chúng ta nên quay nhìn lại Hoa Kỳ, nơi mà một số can phạm cũng nặng tội phản quốc không kém trong việc chuyển giao những bí mật quý giá nhất của Hoa Kỳ cho Trung Cộng.
Trước tiên, đó là Bill Clinton, kẻ đả cố tình cho phép Trung Cộng truy cập kỹ thuật tân tiến của Hoa Kỳ về nguyên tử và phi đạn – trong các phòng thí nghiệm của Bộ Năng lượng và thông qua những công ty không gian như Loral do tên tỉ phú Do Thái Schwarz cầm đầu.
George W. Bush đã từng cấu kết với Trung Cộng đẻ chơi mánh qua vụ bắt giữ máy bay gián điệp ở Hải Nam. (Sự kiện đảo Hải Nam diễn ra ngày 1 tháng 4 năm 2001. Một vụ “va chạm” trên không giữa chiếc EP-3E ARIES II của Hải quân Hoa Kỳ số hiệu máy bay thám thính (BuNo 156511) và chiếc máy bay tiêm kích đánh chặn J-8II của Hải quân Trung Cộng gây ra một “sự kiện quốc tế” giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng. Phi cơ chiến đấu Trung Cộng đã bay sát chiếc máy bay thám thính của hải quân Mỹ, phi công Mỹ phải hạ cánh khẩn cấp xuống một phi trường ở đảo Hải Nam. Sau đó 24 nhân viên phi hành đoàn được thả sau 11 ngày bị “bắt giữ” và chiếc máy bay được trả lại sau khi những gì bên trong đa bị lấy đi. Thế giới nghi ngờ đây là một vụ dàn dựng để Bush chuyển giao các kỹ thuật quốc phòng của Hoa Kỳ cho Trung Cộng.)
Nhưng nếu bạn nghĩ rằng Bush không phải là đồng lỏa và đồng chí lâu lài của các nhà độc tài Trung Cộng, thì bạn nên suy nghĩ lại. Neil, em trai của George W. Bush, đã hỗ trợ một dự án 120 triệu dollars nhằm xây dựng một câu lạc bộ đồng quê dành co các tay trùm cộng sản Trung Cộng bên ngoài thủ đô Bắc Kinh.
[<<< Top]

KỲ 12: The Federal Reserve Conspiracy (Âm Mưu Quỹ Dự Trữ Liên Bang) - Antony C. Sutton

Đây lại thêm một công trình nghiên cứu hết sức chu đáo về âm mưu tài chánh của Do Thái thông qua cái mệnh danh là Federal Reserve - FED (Quỹ Dự Trữ Liên Bang - QDTLB), một tường trình về những thủ phạm và thế lực của chúng phía sau kế hoạch tiếp quản nền kinh tế Hoa Kỳ với tổ chức nầy, nhân danh các tập đoàn tài phiệt Do Thái. Đây là cuốn sách đầu tiên trình bày chi tiết từng giờ những biến cố đã dẫn đến việc phê chuẩn Dạo Luật the Federal Reserve Act năm 1913 – qua nhiều thập niên hoạt động và âm thầm toan tính mà các chủ ngân hàng Do Thái đã thực hiện nhằm nắm giữ độc quyền tiền tệ.
Câu hỏi chủ yếu được đặt ra là: QDTLB có hợp hiến hay không?
Câu trả lời là KHÔNG. QDTLB không hợp hiến. Không một điều khoản nào trong Hiến Pháp Hoa Kỳ cho phép Quốc Hội từ bỏ trách nhiệm phát hành và kiểm soát tiền tệ quốc gia. Dứt khoát vi hiến nếu Quốc Hội trao cho một nhóm chủ ngân hàng tư nhân quyền phát hành tiền tệ quốc gia và nền kinh tế thông qua những kế sách kiếm lời của chính họ.
Sự kiện hiển nhiên của vấn đề nầy liên quan đến QDTLB là: họ có thể đánh bạc với tiền tệ không thuộc sở hữu của họ; và nếu họ thua thì những người thọ thuế Hoa Kỳ sẽ lãnh hậu quả. Quả đáng ngạc nhiên làm sao họ có thể thực hiện được âm mưu đó thông qua Quốc Hội. Có lẽ chưa quá trễ để thách thức ngoại trừ chúng ta có một quốc hội quá thối nát và tất cả họ đều lo tư túi nên thực sự không muốn quan tâm đến thực trạng. Mọi thành viên Quốc Hội và Tối Cao Pháp Viện thường phải cân nhắc hậu quả đối với sự nghiệp chính trị của họ.
[<<< Top]

KỲ 13: Illuminati - The Cult that Hijacked the World (Illuminati - Hội kín đã không tặc Thế giới) - Henry Makow

Quả thực quái đản và khó tin khi mới nghe qua; nhưng thực sự nhân loại đã bị thực dân hóa bởi một thế lực tà đạo mệnh danh là The Illuminati. Tổ chức tà đạo nầy đại diện cho những chủ ngan hàng Do Thái và Tam Điểm đã thu tóm độc quyền tín dụng chính phủ vốn cho phép họ kiếm lời trên những khoản tiền vay mà họ tạo ra từ không khí. Đương nhiên họ muốn bảo vệ đặc quyền đó bằng cách biến nó thành một độc quyền chính trị và văn hóa. Âm mưu nầy mang hình thức một chính phủ toàn trị toàn cầu. Như thế những ai nắm giữ hầu bao của chúng ta đang âm mưu chống lại chúng ta.
Để đánh lạc hướng chúng ta và kiểm soát chúng ta, họ đã xử dụng một mạng lưới ác tăng bao la (Tam Điểm) nhằm thâm nhập hầu hết những tổ chức, đặc biệt là chính phủ, các cơ quan tình báo (CIA), giáo dục, và truyền thông đại chúng. Chúng ta bị điều khiển não bộ để phục vụ Illuminati. Họ triệt hạ những định chế và truyền thống như hôn nhân và tôn giáo; và thăng tiến chủ nghĩa đồi trụy, hỗn loạn, thối nát và chia rẽ. Họ đã đạo diễn hai đại thế chiến và đang hoạch định Thế Chiến III.
Henry Makov cho thấy lịch sử nhân loại đang diễn ra theo kế hoạch của hội kín Illuminati của Do Thái.
[<<< Top]

KỲ 14: The Conspiracy that Will Not Die: How the Rothschild Cabal is Driving America into One-World Government. (Âm mưu bất diệt: Bè lũ Rothschild Do Thái đang lèo lái Hoa Kỳ đến Chính Phủ Toàn Cầu) - Robert Gates Sr.

Tác phẩm nầy là một công trình nhằm chọn lọc và giải thích những nguồn gốc và lịch sử của Trật Tự Thế Giới Mới. Đó là một tác phẩm lý tưởng cho những ai muốn có được một nhận định rõ ràng về giai cấp quyền quý Do Thái đang thao túng thế giới như một sân nhà. Lịch sử gia đình Rothschild được đan xen vào các biến cố lịch sử như một tác nhân ác quỷ đã liên tiếp khởi động các cuộc chiến tranh, kiểm soát các hệ thống ngân hàng của thế giới và có những âm mưu hắc ám đối với số phận của nhân loại. Người ta không thể nhận định đầy đủ hiện trạng thế giới ngày nay, trừ phi nhận thức được lịch sử phía sau những biến cố đã phủ những cái bóng của chúng trên sự hiện hữu của chúng ta ngày nay. Điều cần thiết là phải nhận diện cái mạng nhện đang đẩy chúng ta vào một thế giới đen tối mà nhân loại chưa từng thấy trước đó.
Cộng sản thường tuyên bố:
Làm theo khả năng... Hưởng theo nhu cầu...
Đó có phải là điều mà Hoa Kỳ mong muốn? Một tập đoàn tài phiệt Do Thái đang nhanh chóng đưa Hoa Kỳ đến chủ nghĩa toàn trị và chủ nghĩa cộng sản. Nếu chúng ta phải ngăn chặn chúng thì trước tiên phải phơi bày âm mưu của chúng.
Vào thời điểm tác phẩm này ra đời (2013), nợ quốc gia của Hoa Kỳ vượt quá $14 ngàn tỉ, và tiếp tục gia tăng $1.5 ngàn tỉ mỗi năm. Đế quốc tài chánh Rothschild đang đưa Hoa Kỳ đến một chính phủ toàn cầu. Tổ chức tài chánh tại Hoa Kỳ nằm dưới sự kiểm soát của gia đình Rothschild gồm có Rockefeller Trust, The Ford Trust, và những đám khác. Những định chế tài chánh nầy tài trợ nhũng tổ chức như Council on Foreign Relations. Từ tổ chức nầy, những tổ chức khác cũng được tài trợ bởi những chi nhánh Hoa Kỳ thuộc gia đình Rothschild như NAACP, ACLU, The Black Panthers, v.v... Mục tiêu chính của những tổ chức nầy là tiêu diệt Hiến Pháp do các nhà lập quốc Hoa Kỳ soạn thảo.
Hệ thống âm mưu nầy đang xử dụng cả hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa như những công cụ để thăng tiến nghị trình toàn cầu hóa của chúng.
[<<< Top]

KỲ 15: Dollarocracy: How the Money and Media Election Complex is Destroying America (Chủ Nghĩa Đô-La: Phương Thức Đại Kim Ngân và Mạng Lưới Bầu Cử Truyền Thông đang tiêu diệt Hoa Kỳ) - John Nichols & Robert W McChesney

Tác phẩm nầy được viết ra theo sau kỳ bầu cử tổng thống 2012, kỳ bầu cử đầu tiên với kinh phí kỷ lục 10 tỉ dollar. Hai tác giả đạt giải văn học cho thấy kinh phí tranh cử bất kham nói trên đã định hình hệ thống chính trị Hoa Kỳ, và, vì không có một sự can thiệp đáng kể, nên hiện tượng trên báo hiệu sự cáo chung của nền dân chủ Hoa Kỳ.
Nhờ tổng hợp các phóng sự từ chiến dịch tranh cử 2012 với bối cảnh sâu thẳm nhiều thập niên về truyền thông Hoa Kỳ và quốc tế, phóng viên chính trị John Nichols và nhà phê bình truyền thông Robert W. McChesney giải thích tại sao các kỳ bầu cử Hoa Kỳ đang trở thành những mưu đồ có kiểm soát, có thể dự đoán, đặt dưới sự quản lý của một giai cấp mới gồm các tham vấn nắm trong tay hàng triệu dollar để thao túng chính trị Hoa Kỳ như chưa hề thấy trước kia.
Vì kim tiền đang lớn mạnh hơn và truyền thông – quyền thứ tư để kiểm soát chính phủ - đang suy đồi, nên các công dân Hoa Kỳ đang chịu hiểm họa càng ngày càng thiếu thông tin và càng ngày càng bị thao túng trầm trọng hơn. Nhờ lợi thế chấn động của phóng sự hậu trường và những công trình nghiên cứu kinh ngạc về “chủ nghĩa kim ngân,” tác phẩm Dollarocracy cho thấy chủ nghĩa mới nầy không những gây nguy hiểm cho chính trị bầu cử mà nó còn thách thức yếu tính của chính nền dân chủ Hoa Kỳ.
Bao giờ cũng vậy, sự thay đổi phải đến từ người dân. Nó phải vượt lên quan hệ đảng phái và ý thức hệ, vượt lên những biên giới của một cuộc bàn thảo vốn thường xuyên bảo vệ hệ thống đổ vỡ đó thay vì thách thức nó. Cuốn sách nầy mời độc giả trân quý những gì tốt đẹp nhất về Hoa Kỳ: quyết tâm phá vỡ biểu mẫu đang ngự trị và bắt đầu thế giới trở lại. Lich sử của chúng ta nói với chúng ta rằng người dân Hoa Kỳ có thể phục hưng đất nước của họ và lều lái tiến trình dân chủ đến một tương lai không những tốt đẹp hơn bây giờ mà còn tốt đẹp hơn những thời kỳ tốt đẹp nhất trong quá khứ của chúng ta. Hoa Kỳ là một quốc gia tiến bộ, và, một lần nữa, đã đến lúc nó phải tiến bộ. Nhưng tiến bộ đó đã không hề bảo đảm rằng đại quần chúng sẽ có được và bảo vệ được quyền tự trị nhằm chống lại những nhóm lợi ích. Hiến Pháp Hoa Kỳ không bao gồm bảo đảm nào về quyền đầu phiếu, và sự thiếu sót đó thường xuyên bị khai thác bởi bọn đầu cơ chính trị nhằm biến Hoa kỳ thành một nền dân chủ cho một thiểu số, một tập đoàn tại phiệt trong yếu tính.
Nỗi thật vọng đang lan tràn trong dân chúng đối với những cuộc bầu cử và hệ thống chính trị đương thời dứt khoát chẳng phải là vô lý. Loại xã hội mà chúng ta hiện có được hiểu chính xác như là một chủ nghĩa dollar (Dollarocracy) đúng hơn là một nền dân chủ. Chúng ta có một hệ thống hiện được định nghĩa như mỗi dollar một phiếu thay vì mỗi người một phiếu. Chúng ta sống trong một xã hội trong đó một thiểu số những cá nhân giàu có khủng khiếp và những tập đoàn khổng lồ kiểm soát phần lớn dollars - và, rộng hơn, nắm phần lớn quyền hành. Họ mua những kết quả bầu cử để nắm quyền kiểm soát chính phủ, và họ thuê mướn những chuyên viên hành lang để kiện toàn sự kiểm soát đó sao cho sự phân phối của cải và lợi tức tiếp tục nghiêng về lợi thế của họ. Đó không phải là một điều bí mật. Các cuộc thăm dò cho thấy hơn 60 phần trăm người Mỹ hiểu rằng cơ cấu kinh tế quốc gia bị mất thăng bằng và chỉ thiên vị một phần tử rất nhỏ những người giàu và bỏ mặc thanh phần còn lại. Và người Mỹ thất vọng khi thấy những cơ cấu chính trị bị xuyên tạc và thối nát đến độ không một cái gì có thể thay đổi hoàn cảnh nầy được. Như Jeffrey A. Winters, một nhà chính trị học, đã mô tả nền chính trị Hoa Kỳ khoảng năm 2012, "Nền dân chủ tỏ ra rối loạn mãn tính khi gặp phải những chính sách phục vụ người giàu."
Robert Kennedy Jr. nói đúng khi ông mô tả phán quyết vụ kiện Citizens United như là hình thức kêu gọi những tỉ phú và tập đoàn hoàn thành một cuộc đảo chánh chính phủ. Ông viết, "Chúng ta hiện đang rơi tự do vào tay bọn đầu sỏ kiểu cũ, độc hại, cướp bóc và độc tài. Vốn là biểu mẫu hàng đầu thế giới về dân chủ và một giai cấp trung lưu vững chãi, Hoa kỳ hiện rơi vào tay bọn đầu sỏ và bạo chúa tập đoàn. Hoa Kỳ ngày nay trông giống như một nền kinh tế thực dân, với một hệ thống càng ngày càng có xu thế làm giàu thêm đám thiểu số một phần trăm và phục vụ những nhu cầu lái buôn của các công ty liên quốc ít khi trung thành với tổ quốc chúng ta."
[<<< Top]

KỲ 16: Drugs as Weapons Against Us (Ma túy, Vú Khí chống lại chúng ta) - John Potash

Tác phẩm nầy mô tả tường tận làm thế nào một số dòng họ chuyên nghề buôn lậu ma túy đã hình thành một tập đoàn đầu sỏ và cuối cùng đã làm bá chủ thế giới. Đám đầu sỏ nầy đã tài trợ chế độ Đức Quốc Xã và sau đó đã cứu chúng để chúng làm việc với CIA (Cục Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ). Những hoạt động CIA như MK-Ultra đã phát tán loại ma túy LSD (Lysergic acid diethylamide), một loại acid thần kinh, và những loại ma túy khác vào hàng ngũ cánh tả và những vùng dân cư thiên tả tại Hoa Kỳ và hải ngoại. Bằng chứng cho thấy bọn đầu sỏ nầy đã đẩy Hoa Kỳ xa hơn vào những cuộc chiến tranh dai dẳng tại những khu vực lý tưởng có trồng nhiều á phiện (như Tam Giác Vàng Đông Dương và Lưỡi Liềm Vàng Trung Á). Chúng cũng tài trợ dồi dào những cuộc chiến tại những vùng có trồng nhiều cây coca để sản xuất ma túy cocaine, dưới danh nghĩa là “cuộc chiến chống ma túy;” nhưng thực ra chúng xử dụng ma túy như một cuộc chiến để chống lại chúng ta.
Drugs as Weapons Against Us cho thấy làm thế nào hàng chục nhân viên tình báo chìm của Hoa Kỳ đã xử dụng ma túy để nhắm vào các lãnh tụ thiên tả từ phong trào SDS (Students for a Democratic Society) đến Black Panthers, Young Lords, Latin Kings, and the Occupy Movement... Tác phẩm cũng cho biết làm thế nào CIA đã đặc biệt nhắm vào các nhạc sỹ thiên tả như John Lennon, Jimi Hendrix, Kurt Cobain, and Tupac Shakur để cỗ xúy ma túy; nhưng về sau chúng sát hại họ khi những thành phần nầy bắt đầu tĩnh ngộ và hành động thiên tả hơn.
Tác phẩm phơi bày rất rõ nét bằng chứng các nhân viên tình báo đã đầu độc Paul Robeson bằng LSD, đã cho Mick Jagger dùng LSD lần đầu, đã dụ cho Janis Joplin dùng hồng phiến (amphetamines), cũng như thao túng những thành phần như Elvis Presley, Eminem, the Wu Tang Clan, và những nhân vật khác.
Khi đề cập đến Chiến Tranh Việt Nam, John Potash cho rằng cuộc chiến đó là một trò bịp bợm vì ma túy Tam Giác Vàng, được dàn dựng bởi những hội kín Do Thái. John Potash khẳng định chủ nghĩa cộng sản chỉ là một trò bịp bợm, cũng các hội kín Do Thái đứng phía sau những trò bịp đó. Đường mòn Hồ chí Minh còn có một tên gọi khác là Đường mòn Harriman, đặt theo tên trùm Do Thái Averell Harriman.
“Người ta tìm thấy những bộ đội Bắc Việt nằm chết trên sườn đồi Khe Sanh tay còn ghim ống chích. Người ta tìm thấy những xe tải Bắc Việt chở ma túy cho lính Mỹ.”
Chiến Tranh Việt Nam là một cuộc chiến mà Mỹ được phép đánh nhưng không được phép thắng.
[<<< Top]

KỲ 17:"Comprendre L'Empire - Demain la Gouvernace Globale ou la Revolte des Nations?" - Alain Soral

(Tìm Hiểu Đế Chế - Chính Phủ Toàn Cầu Ngày Mai hay sự Nổi Loạn của các Quốc Gia?)
Đây là một tác phẩm tiếng Pháp của Alain Soral, một tác giả người Pháp. Thay vì tóm lược, chúng tôi xin trích vài nội dung ngắn từ Chương 6; phần còn lại để độc giả tự tìm đọc.
Thuật ngữ “Đế Chế (Empire)” trong tác phẩm nầy ám chỉ Hệ Thống Siêu Quyền Lực Do Thái (còn gọi là tập đoàn tài phiệt Do Thái, Chính Phủ Toàn Cầu Do Thái, hay Nhà Nước Chìm Do Thái).
Những chiến dịch của chính phủ toàn cầu
Bên cạnh nạn khủng bố quốc tế, thông qua tôn giáo đế quốc của nghị trình Israel đang ra sức tiến hành âm mưu bá chủ toàn cầu, những chiến dịch “không biên giới” khác cũng đang được tiến hành để đạt cùng một mục tiêu: buộc các dân tộc phải chấp nhận chính phủ toàn cầu tương lai như một nhu cầu “tự nhiên” vượt lên trên các quốc gia và những đảng phái chính trị.
- Trò Bịp Hâm Nóng Địa Cầu
Với tập tài liệu “An Inconvenient Truth (Une vérité qui derange)” của Al Gore, cựu ứng cử viên thất thủ, nếu không nói là bị cướp đoạt, trong chiến dịch tranh cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2000, tập đoàn toàn cầu hóa sẽ biến vấn đề môi sinh thành ngọn giáo khí hậu của chủ nghĩa toàn cầu. Đó là một chính sách môi sinh dựa trên những công trình của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu của Liên Hiệp Quốc, thành lập năm 1988, và từng được chính phủ Margaret Thatcher xử dụng để biện minh cho kế hoạch giải thể kỹ nghệ của Anh – nhằm phục vụ thị trường mới của chính sách môi sinh được thăng tiến bởi những cựu thành viên quốc tế chủ nghĩa cánh tả và được kết nạp vào chủ nghĩa toàn cầu cánh hữu như Daniel Cohn-Bendit để làm cho dân chúng Tây Phương nhắm mắt tin theo chủ đề “hâm nóng địa cầu.” Đó là một trò nói láo nhằm thiết lập một tương quan nhân quả giữa một sự hâm nóng địa cầu giả định, khí thải CO2, và sản xuất kỹ nghệ, được xem như cho phép chính phủ toàn cầu tương lai áp đặt sắc thuế ô nhiễm. Đó là một sắc thuế được truyền thông trình bày với quần chúng như là thuế chống ô nhiễm, trong khi trên thực tế đó chỉ là một cách tống tiền dàn dựng bởi những đầu óc bệnh hoạn của Goldman Sachs: đòi phải trả – chiếu theo thị trường carbone – quyền được thải chất CO2; nghĩa là, chung quy, đó là thuế đánh vào khí thở! Đó là một trò đạo diễn truyền thông-tài phiệt dựa trên một trò bịp khoa học, may mắn bị tố cáo bởi những chuyên gia khí hậu độc lập. Rồi đây những cường quốc mới trổi dậy như Ấn Độ và Trung Quốc sẽ từ chối, vì họ nhìn thấy rõ trong thị trường đầu cơ mới để mua bán bản quyền ô nhiễm một ý đồ của Do Thái muốn kiềm hãm sự phát triển kỹ nghệ và bá chủ kỹ nghệ của họ trong tương lai...
- Trò Bịp Vaccin H1N1
Đó chính là xạ khí từ Liên Hiệp Quốc với sự đồng lõa của Cơ Quan Y Tế Thế Giới (OMS). Thay vì thuế carbone, đó là vaccin H1N1 thần dược mới, được nói ngăn ngừa nhân loại khỏi những rủi ro “đại dịch” – như dịch toàn cầu, dịch cúm heo. Đó là trò đạo diễn lang băm giúp tập đoàn toàn cầu khủng bố các dân tộc để buộc họ phục tùng những mệnh lệnh độc tài: chủng ngừa cưỡng bách được thực thi bởi công lực, bởi cấm tụ tập... Xin dừng quên nhìn thấy ở đó những mối lợi bất chính. Hệ thống vận động hành lang dược-hóa học, với sự đồng lõa của các chính phủ, đã bán tháo trong chiến dịch đó những khối lượng thuốc Tamiflu khổng lồ vô dụng. Chỉ riêng tại Pháp, 94 triệu hộp Tamiflu được bán với giá 10,60 euros/hộp, tổng cộng một tỉ euros. Dưới áp lực quần chúng và những rủi ro tai tiếng, cuối cùng lượng đặt hàng và số thuốc bán ra giảm đi một nửa – tuy nhiên con số tống tiền vẫn là 500 triệu euros do những người thọ thuế chi trả!
Donald Rumsfeld, người có cổ phần trong công ty dược Gilead Siences, chủ quyền của vaccin Tamiflu, đồng thời là cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ thời George W. Bush, trong chiến dịch đó, đã bỏ túi phần mình mối thặng dư 5 triệu dollars. Một số đầu óc âu lo nhìn thấy những âm mưu thâm độc nhằm hạ độc toàn cầu...
- Trò Bịp 9/11
Đó là những vụ tấn công 9/11 khét tiếng nhắm vào Ngũ Giác Đài và Tòa Tháp Đôi. Đó là một chiến dịch khủng bố tài phiệt dùng Hồi Giáo cực đoan làm công cụ, nhằm cho phép Đế Chế biện minh kế hoạch hành quân bình định tân thực dân (nhắm vào Iraq, Afghanistan, và tời đây sẽ là Iran...) nhân danh cuộc chiến chống khủng bố mơ hồ. Đó là một âm mưu tự động hợp thức hóa chủ đề “xung đột giữa các nền văn minh ,” ngọn giáo đế quốc của đám tân bảo thủ Mỹ, ngoài những chuyện khác, sẽ cho phép nổ tung ngân sách quốc phòng Hoa kỳ - luôn luôn được đài thọ bởi những người thọ thuế Hoa Kỳ - để vinh danh hệ thống vận động hành lang kỹ nghệ-quân sự. Đó là một chiến dịch, nhân danh an ninh nội địa, cuối cùng sẽ cho phép chính Hoa Kỳ thực sự hủy bỏ Tu Chính Hiến Pháp Thứ Nhất vốn bảo đảm những quyền tự do dân chủ cơ bản cho các công dân Hoa Kỳ. Đây là một thực tế chính thức hoàn toàn không thể chịu đựng được liên quan đến những âm mưu 9/11 – đặc biệt với những câu hỏi khó trả lời về sự sụp đổ ba tháp của Tòa Tháp Đôi trong đó tháp số 7 sụp đổ mà không hề bị phi cơ nào tấn công, và phi cơ cũng chẳng được phát hiện trên Ngũ Giác Đài... – đến độ, cũng như nhiều nhân vật cao cấp trong phần còn lại của thế giới, hơn 50 phần trăm người Mỹ không còn tin chuyện đó và ngày nay họ nghĩ đến một âm mưu tay trong dính líu đến tình báo Mỹ và Israel...
- Trò Bịp Qũy Dự Trữ Liên Bang (FED)
Đó là một âm mưu của hệ thống tài phiệt. Thay vì tự thú nhận lỗi về phần mình, nó lại đòi hỏi các chính phủ tay sai phải để cho nó được toàn quyền kiểm soát điều tiết, viện cớ sự lỗi thời của Hoa Kỳ đối trước kinh tế toàn cầu hóa. Đó là một đòi hỏi khuyển nho của tên cứu hỏa đốt nhà, chung quy chỉ giao trứng cho ác, như trường hợp thành lập Qũy Dự Trữ Liên Bang.
- Nan đề tỉ lệ của đám tài phiệt cai trị
Vào giai đoạn quyền lực và tình trạng bất chính đó, cả trên bình diện dân chủ lẫn kinh tế, câu hỏi được đặt ra với hệ thống tài phiệt trở nên một vấn đề thuần túy dân số. Tại sao nhóm nhỏ những thành viên của hệ thống đó có thể tiếp tục kiểm soát một dân số toàn cầu càng ngày càng lớn hơn và càng ngày càng bị thôi thúc phải nổi loạn do một cuộc khủng hoảng được phổ biến hóa?
- Đó là một vấn đề then chốt mà Jacques Attali, quán quân của gia cấp du mục thượng đẳng, trả lời trong những buổi hội nghị nội bộ của ông ta, theo đó ông đề nghị đơn giản hóa và dễ dàng hóa những sự chuyển cấp để làm gia tăng sỹ số của cộng đồng thượng lưu từ 13 triệu lên 200 triệu. (Thế thì Do Thái đâu còn độc quyền cai trị nữa? - vì 187 triệu mới kết nạp kia chắc chắn không thuộc sắc tộc Do Thái.)
- Giải pháp khác, theo đề nghị của Nick Rockefeller, một tay tài phiệt khác, ngược lại chủ trương giản lược một cách cứng rắn dân số thế giới bằng một loạt những hành động Malthus rất giống những chiến dịch của chính phủ toàn cầu được đề cập trước đây, nhưng được thực hiện đến nơi đến chốn: những nạn đói có tổ chức, hạ độc hàng loạt, chiến tranh phổ biến... sao cho quần chúng kia, sau khi bị giản lược thành thiểu số, có thể tiếp tục bị khuất phục và điều khiển bởi giai cấp thượng lưu tài phiệt trong tỉ lệ thực sự của nó... (Không mấy ngạc nhiên khi Phương Trình Bill Gates cho thấy rồi đây nhân loại toàn cầu sẽ bị giản lược xuống còn 5% mà thôi. Trong tầm dài xuyên thế hệ, nhân loại nghĩ sao về những hậu quả khó lường của các loại thuốc “chủng ngừa” mà họ đã, đang, và sẽ đưa vào cơ thể? Con cháu mai sau của họ sẽ ra sao?)
- Tóm lại: Đế chế độc quyền cai tri
Đó là một viễn ảnh bất bình đẳng và bạo động khó tin, có thể có vẻ hoang đường đối với những đầu óc nhân bản hilạp-cơđốc, tuy nhiên nó lại phù hợp với chủ nghĩa chúa tái thế kiểu DoThái-tin lành của đám thượng lưu anglo-saxon. Và, theo lịch sử giả định, viễn ảnh đó đã sản sinh ra nước Mỹ như dự án Do Thái. Đó là một viễn tượng và một bạo động đế quốc mà từ nay không một sức mạnh tinh thần nào dám chống lại ở Phương Tây:
- Vì phía cánh Thiên Chúa Giáo đã gia nhập Đế Chế quyền con người từ Cộng Đồng Vatican II;
- Chủ nghĩa cộng sản không tưởng đã sụp đổ theo Liên Xô cũ do sức nặng của những mâu thuẫn của nó;
- Từ khi Tướng De Gaulle bị khai trừ, đám thượng lưu Pháp chỉ tìm cách phản bội chủ nghĩa toàn cầu Pháp để theo Đế Chế ...
[<<< Top]

KỲ 18: Red-Handed – How American Elites Get Rich Helping China Win (Bàn Tay Vấy Máu - Bọn Thượng Lưu Mỹ đang Làm Giàu bằng cách Giúp Trung Quốc Thắng Cuộc) - Peter Schweizer, Charles Constant..

** Bên cạnh một số công trình khác, tác phẩm nầy sẽ được tham chiếu rộng rãi trong “Chủ Nghĩa Lưu Manh Tập 6” của nhà văn Đông Yên, sắp phát hành nay mai trên Amazon và Barnes & Noble.
Với tác phẩm nầy, đây là lần thứ sáu Peter Schweizer đã kích hoạt một cuộc điều tra của Cơ Quan Điều Tra Liên Bang FBI và đã phơi bày kịch bản buôn bán bên trong Quốc Hội Mỹ. Một nhà điều tra độc lập không thuộc đảng nào cho rằng những phát hiện chấn động trong tác phẩm Red-Handed – How American Elites Get Rich Helping China Win của Peter Schweizer là những phát hiện khủng khiếp nhất trong sự nghiệp một phần tư thế kỷ của ông.
Ngoài hình của Tổng Thống Joe Biden đang bắt tay Lãnh Đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc Tập Cận Bình bên trên, những nhân vật được trưng bên dưới của hình bìa bao gồm những đại gia giàu sụ trong chính trị, thể thao, và kỹ thuật cao ở Silicon Valley, từ trái sang phải:
- Cựu Chủ Tịch Hạ viện John Boehner (Do Thái),
- Tỉ phủ kỹ thuật Elon Musk (Do Thái),
- Cựu Chủ Tịch Hạ Viện Nancy Pelosi (cả hai vợ chồng đều là Do Thái),
- Sao NBA LeBron James (Do Thái),
- Cựu Ngoại Trưởng Henry Kissinger (Do Thái), và
- Tỉ phủ kỹ thuật Bill Gates (Do Thái).
“Bọn tư bản sẽ bán cho chúng ta sợi dây thừng để chúng ta thắt cổ chúng.” Ít có bằng chứng Vladimir Lenin đã chính xác phát biểu như thế. Tuy nhiên, những gì ông nói thực ra chính xác hơn, nếu không nói là ít bóng gió hơn thế: “Bọn tư bản sẽ cung ứng những tín dụng để phục vụ chúng ta trong công tác hỗ trợ Đảng Cộng Sản bên trong các quốc gia của chúng và, bằng cách cung ứng cho chúng ta vật tư và trang bị kỹ thuật mà chúng ta đang thiếu, chúng sẽ phục dựng kỹ nghệ quân sự mà chúng ta cần để tấn công chúng. Nói cách khác, chúng đang đầu tư cho cuộc tự sát của chính chúng... Trong khi khao khát tranh thủ thị trường Xô Viết (Trung quốc, Việt Nam hay bất kỳ chế độ cộng sản nào khác), bọn tư bản và các chính phủ của chúng toàn thế giới sẽ nhắm mắt trước thực tế nói trên và như thế sẽ tự biến chúng thành những thằng điếc, câm, và mù...
Trong khi Liên Xô cũ của Lenin đã trở thành dĩ vãng, não trạng Lenin hãy còn là một thời sự. Và ngày nay, trên Wall Street, Silicon Valley, và Washington, quá nhiều người giả điếc, giả câm và giả mù trong khi bán sợi dây thừng thắt cổ. Và người mua chính là Bắc Kinh.
Thuật ngữ “dây thừng (rope)” trong tác phẩm nầy đặc biệt ám chỉ kỹ thuật, tài chánh, chất xám, và thậm chí hậu thuẫn chính trị dành cho cộng sản. Sợi dây thừng nầy tăng cường khả năng quân sự hay chiến lược của Bắc Kinh, hay bất cứ những gì có khả năng thăng tiến vị thế cạnh tranh của cộng sản đối với Hoa Kỳ. Giới lãnh đạo Tây Phương và Mỹ cố tình rao giảng ảo giác về tiến trình dân chủ bịp của các chế độ cộng sản. Và, trong khi các chế độ nầy rất hài lòng về sự rao giảng những giả đoán ngây ngô đó của Tây Phương, họ khai thác những rao giảng đó để thăng tiến nghị trình chính trị của riêng họ. Đương nhiên các chế độ cộng sản không bao giờ trở thành tự do hơn mà càng ngày càng hiếu chiến hơn và đán áp hơn. Do Thái muốn thế và cần như thế.
Tuy nhiên, nhờ rao giang ảo giác đó, đám thượng lưu đã và đang làm giàu thêm theo tiến trình.
- Họ hậu thuẫn việc đám vận động hành lang (Do Thái) đại điện các công ty Trung Quốc trong các hành lang quyền lực của Hoa Kỳ;
- Họ hậu thuẫn xử dụng tiền 401(K) của chúng ta để “đầu tư” vào các công ty Trung Quốc;
- Họ ngoan cố làm cho công chúng tin rằng, bất chấp mọi bằng chứng, chúng ta có thể liên kết với Trung Quốc và biến họ thành một lực lượng “tích cực” trên hành tinh.
Hai mươi lăm năm trước đây, có thể ít ai cho rằng đám thượng lưu vô lý nếu họ tin có thể làm cho Bắc Kinh thân thiện hơn với Mỹ bằng cách tiến hành những quan hệ với một số viên chức Trung Quốc; thực tế hoàn toàn trái ngược. Họ thừa biết như thế. Họ không ngây thơ; họ cố tình đánh lừa công chúng để tiến hành nghị trình lừa bịp để thủ lợi cho mình và làm lợi cho cộng sản. Bắc Kinh đã giả vờ quan hệ, cho tiền, và làm ăn với một số thượng lưu Mỹ, nên đám nầy đã trở nên thiện cảm hơn với chế độ Bắc Kinh. (Xin đừng quên thuật ngữ “đám thượng lưu” phần lớn ám chỉ bọn trùm Do Thái giàu có thường được mệnh danh là đám thiểu số 1% nắm trong tay số tài sản tương đương với tài sản của 99% kia gộp lại). Tội ác của đám thượng lưu nầy không kể xiết trong những gì mà chúng ta đang khứng chịu ngày nay: một Trung Quốc mỗi ngày một hùng mạnh và hiếu chiến. Các thành viên của đám thượng lưu nầy hoặc đang tìm kiếm hoặc được chế độ Bắc Kinh gạ gẫm những giao dịch béo bỡ, những cơ hội tiếp cận thị trường, và những khoản tưởng thưởng. Đổi lại, dù ngây thơ hay không, những phúc lợi chiến lược và kinh tế đã, đang, và sẽ tiếp tục rót vào chế độ Bắc Kinh.
Trong lãnh vực gián điệp, đám hành sự xử dụng thuật ngữ “elite capture (đánh cướp ưu tú)” để mô tả những nỗ lực thành công nhằm chủ yếu mua đứt những giới lãnh đạo của các quốc gia trên khắp thế giới. Cơ hội làm giàu là một động lực then chốt. Bắc Kinh hy vọng rằng, tối thiểu, phương án nầy sẽ vô hiệu hóa đám thượng lưu ưu tú bằng cách làm cho họ bớt chỉ trích hay phản đối chính sách của Bắc Kinh, hay tối đa, có thể biến họ thành những cỗ động viên thực sự cho Bắc Kinh. (Ở điểm nầy, xin đừng quên rằng phương án “elite capture là sáng kiến của chính Hệ Thống Siêu Quyền Lực Do Thái, chứ không phải của Bắc Kinh). Nhưng dưới mắt một số người, còn có những động cơ khác xa hơn vấn đề tiền bạc. Như chúng ta sẽ thấy, quá nhiều tay chính trị gia, kỹ thuật gia và tài chánh của Mỹ say mê chủ nghĩa độc tài. Họ tin rằng giới lãnh đạo Bắc Kinh hay hệ thống chính trị cộng sản hữu hiệu hơn và tốt đẹp hơn chế độ dân chủ đại diện. (“Họ” ở đây là ai? Do Thái hay Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ?) Tóm lại, giới thượng lưu Mỹ ban tính danh chính ngôn thuận cho chế độ Bắc Kinh và được ân thưởng trở lại bằng những giao dịch tài chánh béo bỡ. Một số khuôn mặt nổi trội giả vờ viện dẫn một vài phát biểu “tiêu cực” của họ về chế độ Bắc Kinh như bằng chứng họ cứng rắn với Trung Quốc. Nhưng nói chung đó chỉ là một trò bịp. Thẳng thắn mà nói, Bắc Kinh không đòi hỏi đám cộng tác của Mỹ hoạch định đường lối đảng. Một cách thực dụng, Bắc Kinh chấp nhận một mức độ phê bình công khai từ đám thượng lưu Mỹ nào đang hợp tác với họ. Ý tưởng đó được mô tả như, “big help with a little badmouth (chửi ít lợi nhiều).” Chấp nhận một số bất đồng và chỉ trích từ các đối tác nước ngoài là khôn ngoan vì nó duy trì được cái bề ngoài khả tín của các đối tác của họ trong mắt công chúng Mỹ. Bao lâu các đám thượng lưu nầy đề cập đến những chính sách và hành động có lợi cho chế độ, phê bình của họ có thể được chấp nhận.
Như thế, chính xác họ là ai trong số thượng lưu Mỹ, cố tình hoặc không cố tình, thực sự chứ không phải nói suông, đã và đang chủ trương thăng tiến chế độ độc tài Bắc Kinh? Xin thưa ngay đó là một số chính trị gia hàng đầu của Mỹ và những tên tuổi tiếng tăm nhất ở Big TechWall Street. Tác phẩm nầy sẽ tập trung vào những gì mà nhiều người trong số chúng ta đã từng biết đến từ nhiều thập niên nay - qua giai thoại. Đám thượng lưu Mỹ đã hợp tác rộng rãi với một chế độ dã man vì tư lợi. Với những bằng chứng mới, chúng tôi sẽ tiếp tục xem xét trường hợp của một nhân vật được xem là quyền thế nhất trên thế giới luôn bênh vực Bắc Kinh trong khi gia đình của đương sự thụ đắc nhiều giao dịch trị giá hàng chục triệu dollars với Bắc Kinh. Thông tin nầy có được là nhờ những cá nhân đã từng có những quan hệ trực tiếp với tình báo Trung Quốc.
Chúng tôi sẽ đưa ra ánh sáng một gia đình tổng thống khác đã từng hưởng lợi qua những giao dịch xuyên thế hệ với Bắc Kinh. Các thành viên của gia đình nầy hiện đang xuất hiện trên truyền hình nhà nước Trung Quốc để ca ngợi những “thành tựu” của chế độ nầy. Chúng tôi sẽ quay sang Quốc Hội và vén bức màn che của Chủ Tịch Hạ Viện Mỹ. Gia đình nhân vật nầy đã thụ hưởng những giao dịch béo bỡ qua nhiều thập niên với Bắc Kinh, cho phép chế độ nầy tác động lên nhiều vấn đề quan trọng nhất đương thời. Chúng tôi sẽ gặp một Thượng Nghị Sỹ quyền thế, Chủ tịch Ủy Ban Tình Báo Thượng Viện, người đã từng bênh vực những hành động của Bắc Kinh trong khi gia đình của bà thụ hưởng một loạt những giao dịch với Bắc Kinh. Chúng tôi sẽ tiếp xúc với các cựu thượng nghị sỹ và dân biểu quốc hội hiện đang hưởng lương của Bắc Kinh và của các xí nghiệp có dính líu đến quốc phòng Trung Quốc, đang vận động hành lang ở Washington cho Bắc Kinh. Chúng tôi sẽ tiếp xúc với một số cựu đại sứ Mỹ ở Trung Quốc hiện đang làm giàu nhờ làm việc cho các đơn vị Trung quốc ở Hoa Kỳ.
Chúng tôi sẽ tìm hiểu một cựu thượng nghi sỹ Mỹ đồng thời là cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ hiện đang giúp các công ty quốc doanh Trung Quốc cạnh tranh với các công ty Mỹ. Chúng tôi sẽ phơi bày các cựu viên chức tình báo và an ninh cao cấp hiện đang giúp Bắc Kinh thủ đắc dễ dàng các kỹ thuật của Mỹ. Từ Silicon Valley, chúng tôi sẽ gặp một số doanh gia kỹ thuật giàu có nhất trên thế giới và sẽ phơi bày những quan hệ mờ ám của họ với Bắc Kinh, cũng như sự kiện họ bênh vực các "giá trị" trên các kênh truyền thông nhà nước Trung Quốc. Chúng tôi sẽ cho thấy cách thức giám đốc của xí nghiệp tài chánh lớn nhất ở Wall Street ca ngợi chế độ Bắc Kinh và thậm chí giúp đỡ Đảng Cộng Sản TQ củng cố vị thế của nó đối với các tập đoàn nước ngoài. Chúng tôi cũng cho thấy làm thế nào và tại sao một trong những nhân vật giàu nhất ở Wall Street đã đầu tư $100 triệu dollars vào dự án tuyên truyền của Đảng Cộng Sản TQ. Quá nhiều người Mỹ giàu có và quyền thế bịt mắt trước bản chất của các đối tác thương mại của họ. Đây chính xác không phải là một kịch bản đôi bên cùng có lợi. Chúng ta không cần phải đọc hết lịch sử Đảng Cộng Sản TQ mới thấy rõ màu sắc thực và những động lực thực của Bắc Kinh. Chúng hiện đang phơi bày ở Tân Cương, nơi họ đang đàn áp tàn nhẫn hàng triệu người. Chế độ Tập Cận Bình đã xây dựng các trại cải tạo, hay cái mệnh danh là “bệnh viện công cộng điều trị chứng suy nghĩ bệnh hoạn.” Đảng cộng Sản TQ biện minh những trại đó viện cớ một loạt những vụ “tấn công tàn bạo” của các thành phần quá khích trong vùng. Hậu quả là việc cầm tù hàng loạt các tín đồ thiểu số lớn nhất kể từ Đệ Nhị thế chiến.
Phụ Ghi: Xin đừng vội nghĩ chỉ có Joe Biden và Đảng Dân Chủ mới đạo diễn kịch bản ô nhục nầy. Đó là kịch bản chung của Tây Phương và Mỹ, Dân Chủ cũng như Cộng Hòa, bất luận ai ngồi tại Bạch Cung. Đó là một kịch bản do Hệ Thống Siêu Quyền Lực Do Thái đạo diễn từ trong hậu trường. Bao lâu Do Thái chưa thực sự cai trị hành tinh bấy lâu chúng cần các chế độ cộng sản như là những phương tiện tiên quyết. Chủ nghĩa cộng sản chỉ giải thể khi phần còn lại nhân loại bị nô lệ hóa thành một đàn cừu khổng lồ đặt dưới sự chăm sóc của đám trời đày vô gia cư hiện có của mà không có nhà, lang thang gây rối để phá nát hành tinh bằng chiến tranh, dịch bệnh, âm mưu, tội ác, nợ mãn tính, và khủng bố. Israel tự cho mình là chế độ dân chủ nhất Trung Đông, trong khi, trên thực tế, đó là một chế độ thần quyền, dùng thiểu số để cai trị đa số. Nguyên thủ quốc gia của Israel (thủ tướng) không được bầu do phổ thông đầu phiếu mà do đảng cầm quyền chỉ định, trong khi Iran, một trong những quốc gia Hồi Giáo Trung Đông bị Israel và Tây Phương chỉ trích nặng nề về vấn đề dân chủ, lại có tổng thống dân cử. Khi hình dung một trật tự thế giới mới với sự cai trị độc tôn của chủng tộc Do Thái, hệ thống Do Thái quốc tế đã thiết kế lối cai trị bằng ủy nhiệm (proxy), không chính thức dùng thiểu số Do Thái để trực tiếp cai trị cả hành tinh mà dùng các đám lãnh đạo bù nhìn trên khắp thế giới để cai trị - đi đầu là chính quyền ở Washington, Ottawa, London, Berlin, Paris, Madrid, Brussels, Rome, Camberra, Wellington, Tokyo, Seoul... và bên cạnh sẽ là Bắc Kinh, Moscow, Havana, Bình Nhưỡng, Hà Nội... ?
- Peter Schweizer trong <“Red-Handed – How American Elites Get Rich Helping China Win” đưa ra những phát hiện và cáo buộc táo bạo, nhưng tác giả chưa đủ táo bạo và thẳng thắn để nói trắng ra phần lớn những tên tội phạm đều là Do Thái và phần lớn những hành tung tội ác được phơi bày trong sách đó đều do bọn Do Thái tiến hành. Suốt cuốn sách dày 342 trang, Peter Schweizer không hề xử dụng một từ nào nói về Do Thái như “Jew” hay “Jewish.” Ông sợ bị Do Thái đưa ra tòa chăng? Thế thì khí khái của người cầm bút ở đâu? Những người như ông mà không dám nêu đích danh Do Thái thì trên đời nầy ai dám chứ? Âu đó cũng là phép lạ của truyền thông Do Thái đã biến phần còn lại thể nhân loài thành một bầy cừu nhút nhát sợ hãi. Tuy nhiên, đừng vì thế mà xem thường tác phẩm hiếm có đó giữa một thời đại mà Do Thái hãy còn là một ác tăng cấm kị.
Riêng cụm từ “Thượng Lưu Mỹ (American Elites)” đủ nói lên tính hồ đồ và không minh bạch trong ngôn từ. Thực vậy đám “thượng lưu nầy” chính xác không phải Mỹ mà là Do Thái. Dù sinh sống, làm giàu và mang quốc tịch Mỹ, đám nầy không bao giờ xem Hoa Kỳ là quê hương của họ mà chỉ là vùng đất bay để làm giàu, đục khoét, thao túng và bôi bẩn, trong khi tổ quốc đích thực của họ, trước sau như một, vẫn là Israel.
Cộng sản cũng như các quốc gia nạn nhân của chính sách Mỹ Do Thái trị thường gọi Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ là “Đế Quốc Mỹ,” “Xâm Lược Mỹ” mà không hề ý thức được rằng những thuật ngữ mang tính thóa mạ đó bắt nguồn từ cảm tính và từ sự thiếu hiểu biết về lịch sử và chính trị đen thế giới. Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đích thực không dính líu đến các chính sách của Washington do Hệ Thống Siêu Quyền Lực Do Thái thao túng vì quyền lợi riêng của Do Thái. Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ bị hàm oan nhưng không có cách nào biện minh được: Do Thái và “Mỹ” lý ra phải được tách ra làm đôi, “Mỹ” là Mỹ và Do Thái là Do Thái, không thể có chuyện mập mờ đánh lộn con đen. Bản thân Peter Schweizer cũng nhập nhằng trong vấn đề nầy, vô tình hay có ý.
Chính âm mưu mập mờ đó đã biến những kẻ thù của Do Thái và Israel thành kẻ thù của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Bao nhiêu cuộc phiêu lưu của Washington qua sự giật dây của Do Thái trên thế giới chỉ mang lợi ích về cho Do Thái và Israel trong khi dân chúng Hoa Kỳ phải gánh mọi thiệt hại về kinh tế, tài chánh, xã hội, quân sự - sinh mang và tiền của nói chung, cùng với số lượng kẻ thù mỗi ngày một gia tăng. Đó là những đặc trưng của một tân thuộc địa trá hình hay một đạo quân đánh thuê miễn phí dưới sự lãnh đạo của những tay bù nhìn ngồi trong Tòa Bạc Ốc, Cộng Hòa cũng như Dân Chủ.

Phần II: Capitol Hill và TNS Dianne Feinstein

Người ta gọi Điện Capitol Hill là SCIF (đọc “skiff”). SCIF là cụm từ viết tắt của “Sensitive Compartmented Information Facility (Cơ Quan Thông Tin Tuyệt Mật),” thuộc số những lâu đài biệt lập nhất ở Washington. Những gian phòng đóng chặt như tủ sắt, cửa thép nặng, hệ truyền tin an toàn, hệ thông gió bảo đảm, và các bức tường đều được chế tạo bằng vật liệu cách âm đặc biệt để phòng ngừa nghe lén.
Chính tại đây Ủy Ban Tình Báo Thượng Viện Hoa Kỳ hội họp để bàn luận những bí mật an ninh quốc gia nghiêm trọng nhất. Với sự giám sát của 18 cơ quan tình báo dân sự và quân sự Hoa Kỳ, ủy ban nầy có đầy đủ tai mắt để theo dõi nhiều tin tức tình báo hải ngoại.
TNS Dianne Feinstein
TNS Dianne Feinstein, của tiểu bang California, đương nhiên đã có mặt rất nhiều bên trong điện nầy. Bà gia nhập ủy ban lần đầu tiên vào năm 2001 và làm chủ tịch ủy ban từ năm 2009. Một gian phòng SCIF có thể ngăn không cho một chính phủ nước ngoài nghe những cuộc bàn thảo của các nhà thực thi quyết định tối cao của Hoa Kỳ.
Điều mà tất cả vật liệu bằng thép và cách âm KHÔNG thể làm được là ngăn chặn một chính phủ nước ngoài cám dỗ các cuộc họp bên trong bằng tiền và thuyết phục họ thực hiện những hành động có lợi cho chính phủ đó.
Từ đầu thập niên 1990, TNS Dianne Feinstein đã có ảnh hưởng vô cùng lớn trên chính sách Hoa Kỳ - một thế lực chính trị thường bị xem nhẹ. Trong cương vị một thượng nghị sỹ Cộng Hòa từ tiểu bang lớn nhất và được xem là uy quyền nhất của Hoa Kỳ, bà đã có những nhiệm vụ đáng kể và tiếng nói nặng ký tại những cuộc họp quan trọng nhất ở Washington. Bà cũng có những quan hệ sâu sắc với chính giới của California. Feinstein đã điều khiển đám cưới của Thống Đốc Jerry Brown và buổi tiệc tiền hôn (wedding shower) của Thống Đốc Gavin Newson tại tư dinh Pacific Heights của bà.
TNS Dianne Feinstein và những nhân vật khác ở các chức vụ thâm niên tại Điện Capitol đã hưởng lợi lớn từ những bố thí tài chánh của Bắc kinh. Từng bước một, họ đã theo đuổi những chính sách có lợi cho chế độ nầy và công khai hậu thuẫn một số hành động tàn bạo nhất của Bắc Kinh. Một số thậm chí đã bênh vực các công ty quân sự TQ chỉ vì đôi món tiền còm. Như chúng ta sẽ thấy, đó là một quần thể đáng kinh ngạc bao gồm những khuôn mặt quyền thế ở cả hai bên của hành lang chính trị Mỹ.
Có thể Trung Quốc không có hy vọng nào khi khởi động chiến dịch nầy. Phải chăng Bắc Kinh có thể thao túng các chính trị gia Mỹ khiến họ biện minh những tội ác của TQ chẳng khác gì biện minh những tội ác của Hoa Kỳ? Phải chăng họ có thể khiến đám chính trị gia nầy tuyên bố, “TQ có một nền văn hóa khác,” và chỉ thế thôi? Phải chăng họ có thể làm cho đám nầy thay đổi lập trường và ban đặc ân cho họ? Lý ra kịch bản đó vượt quá xa và không ai có thể mong đợi.
Ở Washington D.C., TNS Dianne Feinstein đã từng có mặt tại trung tâm chính sách đối ngoại Hoa Kỳ nhiều thập niên, trước tiên phục vụ trong Ủy Ban Quan Hệ Ngoại Giao Thượng Viện trước khi gia nhập ủy ban tình báo. Bắc Kinh nói về TNS Dianne Feinstein một cách rất ưu ái. Truyền thông nhà nước TQ thường trích dẫn các tuyên bố của Feinstein, và thậm chí khen ngợi óc thời trang của bà.
Feinstein thừa nhận ưa chuộng TQ. “Đôi khi tôi nói rằng có lẽ kiếp trước tôi là người Tàu.” Một cách chính xác, bà ưa chuộng chế độ cộng sản TQ. Bà đã từng tuyên bố rằng, trên một số phương diện nào đó, TQ dân chủ hơn Hoa Kỳ. “Xã hội TQ tiếp tục cởi mở với những kiểm soát ý thức hệ nới lỏng hơn, tự do hơn trong việc truy cập thông tin nước ngoài và tường thuật báo chí nhiều hơn. Nhiều người hơn ở TQ bầu cho lãnh tụ của họ ở cấp địa phương so với Hoa Kỳ.” Đừng quan tâm đến độc quyền chính trị của đảng cộng sản.
Giang Trạch Dân và Richard Blum
Quan hệ giữa Feinstein và các viên chức TQ tiến hành sâu sắc. Sau khi lên làm làm thị trưởng Francisco, bà nhanh chóng xây dựng mối quan hệ gần gũi hơn với TQ. Vào năm 1978, Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ với TQ. Năm 1980, bà kết hôn với Richard Blum, một nhà đầu tư rất quan tâm giao dịch làm giàu với TQ. Với dân số đa dạng và vị tri địa lý đặc biệt của nó, Thành Phố Vịnh nầy là một nơi thích hợp để xây dựng những quan hệ sớm với TQ như từ thời đại tàn bạo của Mao Trạch Đông. Feinstein đã phát triển mối quan hệ “thành phố kết nghĩa” giữa San Francisco và Thượng Hải. Sáng kiến đó tỏ ra đặc biệt hữu hiệu vì thị trưởng thành phố Thượng Hải lúc bấy giờ là Giang Trạch Dân. Nhân vật nầy về sau lên chức Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản TQ và làm Chủ Tịch nước TQ. Vào năm 1982, Feinstein cùng chông sang thăm Thượng Hải. Thị Trưởng Feinstein vừa nhảy đầm với họ Giang vừa hát bản “One Day When We Were Young.” Ngay từ đầu, Feinstein đã nói rõ cảm tình của bà đối với TQ là một cảm tình chính trị hơn là chủng tộc. Bà quan tâm đến những quan hệ gần gũi hơn với Hoa Lục, chứ không phải đảo quốc Đài Loan. Thậm chí bà còn đi xa hơn và thúc dục những nhà tổ cuộc diễn hành Năm Mới của thành phố ngưng treo cờ Đài Loan – vì sợ phật lòng Bắc Kinh. Bà muốn khuyến khích mậu dịch với TQ. Chồng bà, Richard Blum, đã thành lập một xí nghiệp quản lý tài chánh mang tên Richard C. Blum & Associates vào khoảng năm 1975. Ông công khai tự hào đã không đầu tư vào những công ty sai trái về chính trị và xã hội như ở Nam Phi – thuốc là và sòng bài, chẳng hạn. Bất chấp hồ sơ nhân quyền, TQ rõ ràng không nằm trong danh sách của ông về các quốc gia phản đạo đức. Blum thành lập vô số xí nghiệp và đối tác có vô số giao dịch với TQ. Trong khi vợ ông thao túng San Francisco để hậu thuẫn chế độ Bắc Kinh, Blum bắt đầu gặt hái những lợi nhuận từ mối quan hệ được thiết lập với Giang Trạch Dân. Ông đã trở thành một trong những nhà đầu tư sớm nhất của Hoa Kỳ vào TQ. Trong thập niên 1980, ông là phó giám đốc của một công ty mang tên <>Shanghai Pacific Partners. Xí nghiệp nầy thành lập một côngi ty liên doanh với một ngân hàng của chính phủ TQ mang tên Shanghai Investment and Trust Company. Gộp lại, họ đã xây dựng một hệ thống trị giá $30 triệu dollars trong thành phố nhộn nhịp đó. Khi vụ thảm sát Thiên An Môn xảy ra vào năm 1989, Blum tuyên bố đã ngưng giao dịch với công ty Shanghai Investment and Trust Company. Tuy nhiên, dựa trên những hồ sơ tập đoàn, ông vẫn còn là nhà “cố vấn ngoại quốc” cho ngân hàng đó của chính phủ TQ. Rõ ràng ông cũng không bao giờ cắt đứt những quan hệ với phó giàn đốc W.K. Zhang của ngân hàng đó, và nhân vật nầy cuối cùng đã gia nhập công ty Shanghai Pacific Partners của Blum với chức vụ phó giám đốc. Zhang đóng vai trò chủ yếu trong việc duy trì mối quan hệ trung thành của thành phố kết nghĩa mà Feinstein và Giang Trạch Dân đã đỡ đầu, vì nhiệm vụ của y là điều hợp những chuyến công du của Giang đến San Francisco. Shanghai Investment and Trust Company Vào năm 1992, Feinstein ứng cử thượng nghị sỹ thuộc đảng Cộng Hòa và thắng. Chồng bà đã quyên góp những khoản tiền lớn lao cho chiến dịch tranh cử. Feinstein dời đến Washington, và Blum phần lớn vẫn ở lại San Francisco. Những giao dịch của ông với TQ gia tăng nhiều lần hơn. Năm 1994, ông khởi động xí nghiệp mang tên Newbridge Capital cùng với người bạn của ông là David Bonderman. W.K. Zhang gia nhập xí nghiệp nầy. Một chí nhánh mang tên Newbridge Asia đã thành lập văn phòng ở Thượng Hải. Vốn của công ty nầy đã đầu tư vào một số xí nghiệp quốc doanh TQ. Shanghai Investment and Trust Company Các giao dịch phi phường và chấn động
Các giao dịch là phi phường và chấn động. Vào năm 2004, Newbridge mua một cổ phần 18% của ngân hàng Shenzhen Development Bank, một ngân hàng cho vay do chính phủ TQ kiểm soát. Đó là lần đầu tiên một công ty ngoại quốc có thể mua một cổ phần của một ngân hàng TQ. Chính Wall Street Journal cũng gọi đây là một “landmark deal (giao dịch bước ngoặc).” Về sau Blum huênh hoang, “Newbridge đã đi tiên phong trong việc xoay chiều để xây dựng những công ty ở Á Châu.” Một trong những quốc gia Á Châu đó chính là TQ, nơi mà những quan hệ và liên kết chính trị được xem là chủ yếu. Theo nhận định của tờ Los Angeles Times,
“Tình bạn lâu đời giữa Feinstein và cựu lãnh tụ chính trị TQ Giang Trạch Dân, vốn có từ những ngày họ là những thị trưởng của hai thành phố kết nghĩa San Francisco và Thượng Hải, đã giúp Blum, chồng bà, người đã có nhiều đầu tư ở TQ, truy cập được hệ thống chính trị Bắc Kinh, thông thường khó ai thâm nhập được.”
Công ty sữa đậu nành và hậu thuẫn của Do Thái
Nhờ công ty nầy, Blum đã nhận được $10 triệu tiền trợ cấp từ tập đoàn tài chánh quốc tế International Finance Corporation (IFC), một phần của World Bank của Do Thái. Theo nhận định của Rashad Kaldany, từng là giám đốc đầu tư ở Á Châu của tập đoàn IFC, một trong những lý do khiến IFC hậu thuẫn Blum là vì “Ông Blum đã có một số quan hệ với những người TQ.
Trong khi ngôi sao chính trị Feinstein đang lên, người bạn Giang Trạch Dân của bà lên làm Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản TQ. Vài năm sau, sau khi Feinstein đắc cử thượng nghị sỹ Cộng Hòa, Giang trở thành chủ tịch nước TQ. Ông nhanh chóng mời Feinstein và Blum đến thăm Bắc Kinh để gặp giới lãnh đạo đảng.
North Dragon Iron & Steel Works
Feinstein tiếp tục ôm chân chế độ Bắc Kinh. Năm 1994, trong khi Thượng Viện Hoa Kỳ xem xét thu hồi quy chế tối huệ quốc của TQ do những vi phạm nhân quyền qua vụ thảm sát Thiên An Môn, bà kịch liệt phản đối, cho rằng “Làm như thế chỉ làm trầm trọng những bất ổn cho Bắc Kinh.” Trong khi bà đưa ra những bình luận như thế, chồng bà gia tăng hàng chục triệu dollars cho quỹ Newbridge Asia. Quỹ nầy về sau được đầu tư vào một số công ty TQ, kể cả việc mua lại gần một phần tư công ty quốc doanh North Dragon Iron & Steel Works. Những chuyến “công du” của TNS Feinstein và chông bà đến Bắc Kinh đã từng bước gia tăng. Có ba chuyến đi giữa 1995 và 1997, trong đó họ đã gặp các viên chức cao cấp của Đảng Cộng Sản TQ, kể cả Chủ Tịch Giang Trạch Dân.
Vợ chồng Feinstein tại Trung Nam Hải
Có lần vợ chồng Feinstein đã được vinh dự duy nhất ăn tối tại thâm cung của Đảng Cộng Sản TQ, Trung Nam Hải, một phần của vườn thượng uyển ngày xưa. Mao Trạch Đông và các nhà cách mạng đã chọn nơi đó làm thủ phủ của họ sau cách mạng. Trung Nam Hải thường cấm người ngoài vào. Về sau Feinstein kể lại, “Chúng tôi dùng cơm chiều tại Trung Nam Hải, trong tư dinh cũ của Mao Trạch Đông và trong chính căn phòng nơi ông chết. Họ nói với chúng tôi rằng chúng tôi là những người ngoại quốc đầu tiên nhìn thấy phòng ngủ và hồ bơi của ông. Quả là một khoảng khắc rất lịch sử khi được nhìn thấy những thứ đó.”
Feinstein, John Glenn, và Sam Nunn
Vào năm 1996, Chủ Tịch Giang Trạch Dân đã thực hiện một buổi tiệc dành cho ba Thượng Nghi Sỹ Mỹ - TNS Feinstein, TNS John Glenn, và TNS Sam Nunn. Các viên chức tình báo Hoa Kỳ tin rằng đó là một phần trong những nỗ lực của TQ nhằm gia tăng các chiến dịch gây ảnh hưởng lên chính sách Hoa Kỳ. Tại bữa tiệc, Giang Trạch Dân chơi đàn dương cầm cho Feinstein nghe và nói chuyện với Glenn và Nunn. Họ được Giang Trạch Dân chiêu đãi theo nghi thức hoàng gia. Về sau, những nhân viên nghe lén của Cơ Quan Nội An cho biết đã nghe được các “câu chuyện táo bạo liên quan đến việc mua truy cập.” Sứ mạng bí mật cuối tuần Chưa đầy một năm sau, Feinstein thực hiện một “sứ mạng bí mật cuối tuần (secret weekend mission)” để qua thăm Bắc Kinh nhằm nói chuyện riêng với Chủ Tịch Giang Trạch Dân. Bà cho biết, “Tôi biết Giang rất rõ và mục đích của tôi là giúp ông ấy nhìn thấy lập trường của Hoa Kỳ một cách rõ ràng.” Feinstein giữ lại một thiện cảm đối với nhà lãnh đạo TQ, bỏ qua vai trò tàn bạo của ông khi điều hành chế độ Bắc Kinh. Với chức vụ thị trưởng, Giang Trạch Dân đã đóng một vai trò trọng tâm trong vụ thảm sát Thiên An Môn. Trong những xáo trộn đưa đến biến cố đó, một số trong lực lượng công an đã đề nghị để ông tiếp quản thay thế một lãnh đạo mềm yếu đối với những người biểu tình. Chen Yun, một cựu nhân viên an ninh của thành phố Thượng Hải cho biết, “Đồng chí Giang Trạch Dân, thị trưởng thành phố Thượng Hải, sẽ là một ứng viên xuất sắc. Ông là một người khiêm tốn và rất tôn trọng đường lối đảng.”
Feinstein bào chữa vụ Thiên An Môn
Trong khi họ Giang hậu thuẫn đường lối cứng rắn của đảng, Feinstein luôn luôn nói một cách thân thiện về người bạn đó của bà, một người, ngoài những chuyện khác, đã mở cửa cho những giao dịch làm ăn của chồng bà. Trong thập niên 1990, khi Tòa Bạch Ốc của Clinton không muốn long trọng thiết đãi Giang bằng một bữa quốc tiệc vì vai trò của y trong vụ Thiên An Môn, Feinstein đã thân mật mô tả Giang như “người thích hợp để lãnh đạo TQ đến một vận mệnh rất đáng kể.” Trong những cuộc phỏng vấn sau nầy, bà biện minh những gì xảy ra trong ngày đó tại Thiên An Môn vào tháng 6/1989. Bà giải thích rằng vấn đề không phải là sự tàn bạo mà là do thiếu tài nguyên. Feinstein cho biết họ Giang đã nói với bà, “Trung Quốc không có cảnh sát địa phương.” (Đó là chuyện lạ, vì chi công an Bắc Kinh, chẳng hạn, cũng phục như là một lực lượng cảnh sát vậy). Bà nói tiếp, “Đó chỉ là quân đội TQ. Và không lực lượng cảnh sát địa phương nào có nhiệm vụ kiếm soát quần chúng. Do đó, mới có xe tăng. Nhưng đó là quá khứ. Người ta lấy quá khứ làm bài học. Xin đừng nhắt lại. Tôi nghĩ TQ đã học được một bài học.”
Phụ Ghi
Xin đừng quên TNS Dianne Feinstein là người Mỹ gốc Do Thái. Bà và những tên trùm Do Thái/Mỹ suy nghĩ và hành động theo mệnh lệnh của hệ thống siêu quyền lực Do Thái, chống lại Hoa Kỳ. Ở đâu có Do Thái ở đó có cộng sản, phản bội, tội ác, nợ, âm mưu, và tham ô thối nát. Họ đã và đang phản bội nước Mỹ.
[<<< Top]

KỲ 19: "Secret Empires" - Peter Schweizer.

(Những Đế Quốc Bí Ẩn)
Peter Schweizer đã có thành tích đánh tham nhũng trong guồng máy chính trị Hoa Kỳ và đã thắng trong nhiều năm với các công trình:
- Throw Them All Out: Phơi bày kịch bản buôn bán bên trong Quốc Hội Mỹ, một âm mưu đã đưa đến việc phê chuẩn đạo luật STOCK Act;
- Extortion: Phát hiện phương thức các chính trị gia xử dụng những chiến thuật giống như Mafia để làm giàu;
- Clinton Clash: Khám phá bộ máy làm tiền khổng lồ của vợ chồng Clinton và đã kích hoạt một cuộc điều tra của Cơ Quan FBI.
Trong "Secret Empire", Peter Schweizer giải thích một nạn tham nhũng mới đã hình thành ra sao, dính líu đến những số tiền lớn lao hơn trước kia. Hàng chục ngàn dollars bỏ trong ngăn đá trở thành những giao dịch chứng khoáng trị giá hàng tỉ dollars được thực hiện trong những góc tối của thế giới. Một ngân hàng Mỹ tại Trung Quốc (TQ) thường bị luật pháp TQ cấm không được thuê mướn một toán thành viên gia đình của các chính trị gia TQ. Tuy nhiên, một ngân hàng TQ tại Mỹ có thể thuê mướn bất kỳ ai họ muốn. Thậm chí ngân hàng đó có thể mời bạn bè và gia đình của các chính gia Mỹ đầu tư vào những giao dịch chỉ có thắng chứ không hề thua.
Các người con của cựu Tổng Thống Donald Trump đứng hàng đầu trên thế giới với những giao dịch béo bỡ với TQ. Truyền thông Mỹ ít khi để ý đến những giao dịch mờ ám của những nhân vật thân cận với Barack Obama, Joe Biden, John Kerry, Mitch McConnel, và những chính trị gia ít tiếng tăm hơn nhưng đã tham gia trò chơi lâu năm. Hunter Biden - người con trai của TT Joe Biden - và Chris Heinz - người con ghẻ của Cựu Ngoại Trưởng John Kerry - đã hưởng lợi khủng khiếp từ những giao dịch bí mật hàng tỉ dollars với các tập đoàn quốc doanh Trung Quốc. Những giao dịch nầy được tiến hành khi Biden và Kerry thương thuyết những vấn đề nhạy cảm với chính phủ Bắc Kinh.
Trong nhiều vùng trên thế giới, con cháu của những khuôn mặt chính trị quyền thế đi vào kinh doanh và hưởng lợi kết xù, không nhất thiết vì họ tài giỏi kinh doanh mà vì dân chúng muốn tìm kiếm đặc ân từ bố mẹ của họ. Đây là một hiện tượng tương đối mới ở Hoa Kỳ; nhưng đối với các thân nhân của những gia đình chính trị hàng đầu, chúng ta đã nói đến hàng trăm triệu dollars.
Nhờ nghiên cứu sâu rộng và được hậu thuẫn bởi những phát giác đầy kinh ngạc, tác phẩm Secret Empires điểm mặt những công bộc nào không thế được tin cậy và cung ứng một hướng trình đến một chính phủ có trách nhiệm hơn (?) Nạn tham nhũng trong và do giai cấp chính trị đã tiến hóa qua nhiều năm. Hết rồi cái thời mà Dân Biểu William Jefferson của Louisiana bị phát giác cất giấu $90,000 hối lộ trong ngăn đá, hay Dân Biểu Randy Duke đã tạo dựng một “thực đơn hối lộ (bribery menu)” từng mang về cho ông $2.4 triệu. Lý do của sự tiến hóa nầy là vì, cũng như phần còn lại trong chúng ta, các chính trị gia muốn tránh hành vi tội phạm lộ liễu hay tai hại về mặt chính trị. Tại Ấn Độ, các chính trị gia rất ít quan tâm đến hành vi tai hại về mặt chính trị và thường xem sự sợ hãi đối với công chúng như là thứ yếu so với tư lợi của chính họ. Ở Hoa Kỳ, nạn tham nhũng chính trị đã tiến hóa để tránh những nan đề như thế và đã lựa chọn hai phương án: (i) “corruption by proxy (tham nhũng qua ủy nhiệm)” và (ii) “smash and grab (đánh cướp).”
Tóm lại, tác phẩm của Peter Schweizer là một cuộc hành trình chạy bằng sự kiện xuyên qua đầm lầy tham nhũng chính trị ở Hoa Kỳ; và bức tranh của cả hai bên sân khấu chính trị Mỹ đều không tốt đẹp chút nào.
Vì phần lớn các doanh gia và chính trị gia không là gì cả nếu thực chất họ không hành nghề kinh doanh, nên các chính trị gia cũng đã áp dụng một số phương án để gia tăng tài sản cá nhân của bằng cách vận dụng vị thế chính trị của họ đồng thời tránh tiết lộ những điều lệ hiện hành có thể thu hút sự theo dõi tiêu cực của công chúng. Trong khi truyền thông Mỹ dành phần lớn của hai năm 2017 và 2018 cho nỗ lực khám phá tệ nạn tham nhũng trong chính quyền Donald Trump, cuốn sách nầy lại cho chúng ta một cái nhìn vào những trùng hợp khá lạ lùng đã xảy ra trong nhiệm kỳ của Tổng Thống Obama.
Vì phần lớn các doanh gia và chính trị gia không là gì cả nếu thực chất họ không hành nghề kinh doanh, nên các chính trị gia cũng đã áp dụng một số phương án để gia tăng tài sản cá nhân bằng cách vận dụng vị thế chính trị của họ đồng thời tránh tiết lộ những điều lệ hiện hành vốn có thể thu hút sự theo dõi tiêu cực của công chúng. Trong khi truyền thông Mỹ dành phần lớn của hai năm 2017 và 2018 cho nỗ lực khám phá tệ nạn tham nhũng trong chính quyền Donald Trump, cuốn sách nầy lại cho chúng ta một cái nhìn vào những trùng hợp khá lạ lùng đã xảy ra trong nhiệm kỳ của Tổng Thống Obama.
Bốn Trường Hợp Điển Hình
- Thứ nhất: Thứ nhất: Xí nghiệp Rosemont Capital
Phó Tổng Thống Hoa Kỳ (Joe Biden) đến TQ, được các thiếu nhi TQ cầm hoa chào đón, và đã có những bàn bạc sổi nổi với các đối tác TQ của ông, bao gồm Chủ Tịch và Phó Chủ Tịch TQ. Cũng có một cuộc Marathon hữu nghị năm tiếng với Chủ Tịch Tập Cận Bình. Lập trường diều hâu của TQ về Biển Đông không hề được bàn cãi trong năm tiếng đó. Đến đây không có gì đáng nói, đương nhiên? Dứt khoát không. Chúng ta tiếp tục.
Tháp tùng phái đoàn Phó Tổng Thống Joe Biden có Hunter Biden, con trai của ông, một đồng sở hữu chủ của một xí nghiệp chứng khoáng tư nhân trị giá $2.4 tỉ dollars. Người đồng sở hữu chủ của xí nghiệp chứng khoáng tư nhân kia chính là người con trai ghẻ của Cựu Ngoại Trưởng Mỹ, John Kerry. Chưa đầy hai tuần sau chuyến đi của Joe Biden, người con trai của ông nhận được một giao dịch độc chiếm vô tiền khoáng hậu với TQ. Xí nghiệp chứng khoáng tư nhân của ông thông báo thành lập một công ty liên doanh với Ngân Hàng Bank of China để thành lập một quỹ đầu tư tại Khu Mậu Dịch Tự Do Shanghai Free-Trade Zone ở TQ. “Nhờ hoạt động từ Shanghai Free-Trade Zone, họ có thể xử dụng vốn của chính phủ TQ và đầu tư tại đó, hoặc lấy vốn ra khỏi TQ và đầu tư ở Hoa Ky hay những nơi nào khác. Không một ai khác có thể có được một giao dịch như thế ở TQ. Giao dịch của Chính phủ TQ tháng 12/2013 với các người con trai của Phó Tổng Thống Mỹ và Ngoại Trưởng Mỹ xảy ra trong lúc TQ đưa ra những tuyên bố chủ quyền hiếu chiến ở Thái Bình Dương.”
[** Chris Heinz, một đồng sở hữu chủ của xí nghiệp chứng khoáng Rosemont Capital, có người mẹ tục hôn với TNS John Kerry vào năm 1995. Nhân vật nầy lên làm ngoại trưởng Mỹ từ năm 2013 đến 2017.]
Đây là lý do tại sao tất cả kịch bản đó được giả định là hợp pháp: “Đạo Luật Chống Tham Nhũng (FCPA - Foreign Corrupt Practices Act) cấm các công ty Mỹ thuê mướn hay thực hiện những giao dịch đặc biệt với con cháu của các viên chức ngoại quốc. Đạo luật đó không cấm các công ty ngoại quốc thuê mướn hay thực hiện những giao dịch đặc biệt với con cháu của các viên chức Mỹ. (Peter Schweizer). Quả là một lỗ hổng kinh ngạc và tiện dụng.
Đương nhiên những người liên can quyết liệt phủ nhận mọi sai trái và mọi giả đoán cho rằng Phó Tổng Thống và Ngoại Trưởng Mỹ, bằng cách nào đó, đã tác động lên hợp tác thương mại vô tiền khoán hậu nói trên giữa Ngân Hàng Bank of China và một xí nghiệp tư nhân do các người con trai của họ làm chủ.
Peter Schweizer viết tiếp,
“Nếu một chính trị gia hay người hôn phối của chính trị gia đó trực tiếp lãnh một khoản tiền lớn ở Mỹ mà không khai báo là phạm pháp. Không khai báo chuyện đó là vi phạm luật liên bang. Tuy nhiên, không khai báo sự kiện con thành niên hay bạn đã lãnh một số tiền lớn do những hành động chính sách của chính trị gia thì không được xem là phạm pháp – vì ở nước ngoài.”
[** Tên của công ty liên doanh nói trên là BHR (Bohai Harvest RST), một vịnh xa xôi của Hoàng Hải. Chữ tắt “RS” ám chỉ Rosemont Seneca].
”Vào năm 2015, BHR hợp lực cùng với chi nhánh xe hơi của nhà thầu quốc doanh TQ về hàng không Aviation Industry Corporation of China (AVIC) để mua những phụ tùng “lưỡng dụng” của công ty Henniges. AVIC sở hữu 50% công nghiệp sản xuất vũ khí quân sự của CATIC - China National Aero-Technology Import and Export Corporation – và sản xuất nhiều loại chiến đấu cơ, oanh tạc cơ, phi cơ vân tải, phi cơ tự hành – chủ yếu để cạnh tranh với Hoa Kỳ.”
Tất cả kịch bản nầy xảy ra dưới thời giám sát của TT Barack Obama. Người ta lấy làm lạ tại sao không nghe ai nói gì về sự phẫn nộ trên truyền thông Mỹ liên quan đến những trường hợp xung đột lợi ích trắng trợn như thế, tại sao không nghe ai các “talk show” lên tiếng về chế độ tư bản gia đình trị, vân vân... Quả nhiên như thế.
- Thứ Nhì: Joe Biden và Ukraine
Những hành trình làm ăn của Phó Tổng Thống và Ngoại Trưởng Mỹ không giới hạn ở TQ. Trong vòng ba năm, từ 2014 đến 2017, Phó Tổng thống Mỹ đã thực hiện năm chuyến công du đến Ukraine, không kể những cuộc điện đàm cố vấn thường xuyên của ông với tổng thống Ukraine. Để làm gì?
Peter Schweizer cho biết,
Cả Joe Biden lẫn John Kerry đều hậu thuẫn khoản vay trị giá $1.8 tỉ dollars trên lưng những người thọ thuế Hoa Kỳ dành cho Ukraine qua trung gian của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (một tổ chức tài chánh của Do Thái quốc tế). Số tiền nầy sẽ được xử dụng để giữ cho các thị trường tài chánh của quốc gia nầy hoạt động; và phần lớn số tiền $1.8 tỉ nầy sẽ rót vào ngân hàng tư nhân PrivatBank của Kolomoisky. Và hơn $1 tỉ từ PrivatBank nầy đã nhẹ nhàng biến mất.
Kolomoisky là ai và PrivatBank là gì?
Ihor Kolomoisky là một tay tài phiệt khét tiếng của Ukraine, sở hữu chủ của công ty năng lượng lớn Burisma, ngoài việc kiểm soát ngân hàng PrivatBank, ngân hàng lớn nhất Ukraine. Y khét tiếng dường như do những thủ thuật kinh doanh được nói là bạo động và tàn nhẫn của y. Những đối thủ của y cáo buộc y đã dính líu đến những vụ giết người và đánh đập. Hơn nữa, Kolomoisky có trong tay những thông hành Ukraine, Israel, và Cyprus – trong khi hiến pháp Ukraine cấm xử dụng quốc tịch kép. Khi được hỏi về vấn đề nầy, Kolomoisky chế giễu, “Hiến pháp cấm quốc tịch đôi như đâu có cấm quốc tịch ba?”
Devon Archer là ai?
Y là đối tác quản lý của công ty liên doanh Rosemont Ventures. Nhân vật nầy đến thăm Bạch Cung ngày 16/4/2014 để họp riêng với Phó Tổng Thống Mỹ. Sáu hôm sau, tức ngày 21/4/2014, PTT Biden đáp xuống Kiev để tiến hành một loạt những cuộc họp cấp cao với các viên chức Ukraine. PTT Biden mang theo những điều khoản vô cùng thuận lợi của Cơ quan USAID ở Hoa Kỳ nhằm giúp kỹ nghệ hơi thiên nhiên, và những hứa hẹn về viện trợ tài chánh và cho vay nhiều hơn nữa. Ngày hôm sau, 22/4/2014, có một công bố cho biết Devon Archer được yêu cầu gia nhập hội đồng quản trị của công ty năng lượng lớn Burisma. Ba tuần sau, 13/5/2014, có thông báo cho biết Hunter Biden cũng sẽ gia nhập. Thực ra Hunter Biden có ít hoặc không hề có kinh nghiệm về luật pháp Ukraine hay kỹ nghệ năng lượng. Trong một quốc gia tham nhũng như Ukraine, Burisma khét tiếng về tệ nạn nầy.
Những gì đã xảy ra cho những khoản viện trợ và cho vay nói trên? Chúng biến mất bằng cách nào?
Dường như hơn 40 xí nghiệp Ukraine sở hữu bởi 54 đơn vị nước ngoài đăng ký theo quyền tài phán Caribe, Hoa Kỳ, Cyprus và liên kết với các nhóm công ty của PrivatBank Group, đều vay tiền từ PrivatBank ở Ukraine với trị giá $1.8 tỉ dollars.
Quốc Hữu Hóa PrivatBank
Vào tháng 12/2016, chính quyền Ukraine buộc phải quốc hữu hóa PrivatBank của Kolomoisky khi họ khám phá ra rằng ngân hàng nầy thu tóm tiền tiết kiệm của dân Ukraine. Họ cố gắng – hay giả vờ cố gắng – bắt Mykola Zlochevsky, người sáng lập Burisma.
Vào tháng 4/2016 họ tịch biên tài sản của Zlochevsky và y bỏ trốn ra nước ngoài. Sau đó y bị đặt vào danh sách tầm nã của Ukraine. Văn phòng công tố Ukraine thực sự tịch biên các giếng hơi đốt của Burisma. Sở thuế bắt đầu điều tra y vì tình nghi trốn thuế. Nhưng sau đó, tương tự như tất cả những vụ điều tra tham nhũng đối với các nhân vật cao cấp và quyền thế trong các xứ tham nhũng trầm trọng, như Ukraine, các cuộc điều tra đã đình chỉ.
Nguyên do?
Vào tháng 1/2017, Phó TT Mỹ Joe Biden lên lịch bay đến Ukraine. Bốn ngày trước khi Biden đến, Burisma hãnh diện tuyên bố: Các cuộc điều tra hình sự của Ukraine nhắm vào công ty và người sáng lập công ty đã được các công tố chính phủ Ukraine chấm dứt.
- Thứ Ba: Mitch McConnell
TNS Mitch McConnell, lãnh tụ khối đa số thượng viện từ năm 2015, là thượng nghị sỹ Mỹ phục vụ lâu năm nhất trong lịch sử Kentucky – hay đúng hơn, một chính trị gia kinh khủng. “Gần ba thập niên trước đây, vào năm 1989, “ngay sau vụ thảm sát Thiên An Môn, McConnell đã đọc một bài diễn văn theo đường lối cứng rắn ở Đại Học Louisville.” Bốn năm sau, McConnell kết hôn với Elaine Chao, con gái của người Hoa nhập cư James Chao, đến Mỹ vào năm 1958. Elaine Chao lập nghiệp ở Washington và trở thành thực tập viên tại Tòa Bạch Ốc dưới thời Reagan và sau nầy là chủ tịch Ủy Ban Hải Quân Liên Bang (Federal Maritime Commission). Bà là Bộ Trưởng Giao Thông thời Donald Trump.
- Vào năm 2000, McConnell thuộc số những nghị sỹ đã bảo trợ dự luật S.2277 nhằm gạt bỏ một đòi hỏi mà Quốc Hội đã thông qua theo sau biến cố Thiên An Môn liên quan đến việc chuẩn thuận hằng năm xác định Trung Quốc có hay không có tiến bộ về nhân quyền trước khi tiếp tục hưởng quy chế tối huệ quốc. - Vào tháng 12/1993, người ta thấy TNS McConnell xuất hiện ở Bắc Kinh để tiến hành một loạt những cuộc họp riêng với các viên chức thâm niên nhất của chính phủ TQ... Những cuộc họp nầy do James Chao, bố vợ của McConnell, sắp xếp. và đã diễn ra theo lời mời của tập đoàn China State Shipbuilding Corporation (CSSC).
- Vào năm 1999, khi Chủ Tịch Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện, TNS Jesse Helms, đệ trình dự luật Taiwan Security Enhancement Act nhằm hậu thuẫn cho một Đài Loan độc lập với TQ, dự luật đó được 21 phiếu thuận và sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Đảng Cộng Hoa. Nhưng McConnell không có tên trên danh sách đó.
- Vào tháng 9/2011, khi Dự Luật Currency Exchange Rate Oversight Reform Act (S.1619) được đệ trình lên Thượng Viện, nhằm trừng phạt những quốc gia xử dụng tiền tệ bất chính để tránh thuế nhập khẩu, mọi người đều biết dự luật đó nhắm vào TQ. McConnell cực lực phản đối dự luật.
Nhưng ông không chỉ phản đối dự luật. Vào ngày 6/10/2011, ông ra sức ngăn chặn TNS Harry Reid, lãnh tụ khối đa số Thượng Viện lúc bấy giờ, đệ trình dự luật nói trên để bỏ phiếu. Ong làm thế bằng cách đình chỉ những quy định trên sàn Thượng Viện và đưa ra những tu chính... Do đó, TNS Reid đã xử dụng một phiên bản của một nghi thức hiếm hoi mệnh danh là “nuclear option” để thay đổi các quy định Thượng Viện đã được khối đa số Dân Chủ đã thông qua. Sự kiện nầy đã khiến cho McConnell phẫn nộ. Vào ngày 11/10/2011, dự luật được thông qua với số phiếu 63/35. McConnell phản đối dự luật.
- Thứ Tư: ”Smash and Grab”
Với bản thân Barack Obama, Peter Schweizer cho rằng nhiệm kỳ của tổng thống Dân Chủ nầy mang một hình thức tham nhũng mệnh danh là ”Smash and Grab (cướp khéo).”
Mô Tả Chung Theo mô tả của Peter Schweizer . ”Smash and Grab trong chính phủ vận hành như thế nầy:
”Giả sử có một công ty hay kỹ nghệ đặc biệt có nhiều vốn nào đó. Bằng lời nói hay chính sách của mình, chính phủ ‘đập nát’ kỹ nghệ đó với lý do kỹ nghệ đó xấu, nguy hại, hay nguy hiểm. Kịch bản thường xảy ra vì một kỹ nghệ hay công ty được xem là nguy hại cho môi trường hay sức khỏe công cộng, hoặc nó bóc lột những thành phần dễ bị tổn thương. Một khi bị đập nát, giá trị của kỹ nghệ hay công ty đó rơi xuống thê thảm. Nhưng có một cái gì khác xảy ra. Các nhà đầu tư hay ngân hàng quan hệ gần gũi với chính trị gia đó liền mua đứt công ty đó hay mua cổ phần trong công ty đó với giá hời. Sau đó, công ty hay kỹ nghệ đó tái phục lại sự lớn mạnh trước kia và giá trị của nó gia tăng đáng kể với các chủ mới vốn có quan hệ với các chính trị gia.”
Phương án nầy tiến hành ra sao dưới chính quyền Obama? Một trong những ví dụ điển hình nhất là các trường tư thục nhận được $32 tỉ trợ cấp liên bang (federal student aid) mỗi năm. Vào năm 2011, Trong nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên của Obama, Bộ Giáo Dục thông báo áp dụng cái mệnh danh là “gainful employment rule (quy định hiệu quả việc làm),” một quy định đòi hỏi các trường tư thục phải theo dõi thành tích của các sinh viên tốt nghiệp trong thị trường việc làm. Những chương trình nào không cho thấy những kết quả tốt sẽ bị cắt trợ cấp và tiền vay liên bang. Điều lạ lùng là thậm chí trường hợp đó xảy thì “các viên chức thâm niên của Bộ Giáo Dục sẽ tích cực liên hệ với các nhà đầu tư nào của quỹ hỗ tương (hedge fund) đang bán tháo các cổ phần nơi các trường tư thục vì sợ chúng xuống giá do những quy định mới.”
Trong tháng 10/2015, Bộ Quốc Phòng phạt cảnh cáo Trường Đại Học Phoenix về tội “quảng cáo láo, bán hoặc quảng cáo dịch vụ cho sinh viên.” Mặc dù 15 trường được nói đã vi phạm như thế, chỉ có bốn trường, trong đó có nhóm Apollo Education Group của Đại Học Phoenix, bị đình chỉ. Về sau, Peter Levine, quyền thứ trưởng quốc phòng, gọi sự kiện đó là “crappy (tồi).”
Kết quả tức thời: Giá cổ phiếu từ $11.29 trong tháng 10/2015 rơi xuống $6.38 mỗi đơn vị trong tháng 1/2016. Giá cổ phiếu rơi hơn 90% so với tháng 1/2019, khi Obama nhậm chức.
Đó là “SMASH”
Và đây là “GRAB”
Một nhóm “nhà đầu tư” nhảy vào “cứu nguy.” Vào ngày 8/2/2016, công ty cổ phần của Phoenix (Apollo Education Group) thông báo rao bán. Giá cổ phiếu được ấn định là $1.1 tỉ dollars... Điều đáng nói là, trước khi bị đánh trong thời Obama, công ty nầy trị giá gần chín lần hơn thế.
Câu hỏi tự nhiên là Obama ở đâu trong kịch bản đó.
Trong số những “nhà đầu tư” đứng ra mua lại (Apollo Education Group) có người bạn thân nhất của tổng thống. Một tay chơi nhỏ hơn trong nhóm là Vistria Group. Tại sao? Trước khi có quy định đòi hỏi vụ bán phải có sự chấp thuận của Bộ Giáo Dục thì đã có Tony Miller của Vistria Group, từng là viên chức hàng thứ nhì của bộ nầy. Và vụ đình chỉ ngân quỹ dành cho Đại Học Phoenix thì sao? Một chiến dịch vận động hành lang ngắn nhưng thành công với Ngũ Giác Đài đã khiến vụ đình chỉ nói trên bị hủy bỏ - và đương nhiên giá cổ phiếu đã lên trở lại. Sau vụ bán, Tony Miller trở thành chủ tịch hội đồng quản trị của Vistria Group.
Sau vụ bán, Tony Miller trở thành chủ tịch hội đồng quản trị của Vistria Group.
[<<< Top]

KỲ 21: "After America: Get Ready for Armageddon.

(Thế Giới Hậu Hoa Kỳ)
. Xin đừng lạc quan về tương lai Hoa Kỳ
Trong tác phẩm bán chạy nhất trước đây, “America Alone: The end of the World as We Know It”, Mark Steyn đã tiên liệu sự sụp đổ trên phần còn lại của Thế Giới Phương Tây. Bây giờ, ông nói thêm, Hoa Kỳ đã theo chân Âu Châu để hối hả tiến đến tự diệt. Đó không chỉ sự sụp đổ tài chánh đang ló dạng; đó không chỉ một nền văn hóa dường như đang trên tiến trình diệt vong, đầy những kẻ bất hạnh, nuông chiều, ấu trĩ, cứ nghĩ rằng chính phủ có câu trả lời cho mọi vấn đề; đó không chỉ là nhật thực tiềm tàng của Hoa Kỳ - hiện được xem như một cường quốc thế giới – do hậu quả của tên thủy thủ say rượu đang thực hiện chính sách ở Washington. Không, đó là tất cả những gì nêu trên và nhiều vấn đề khác đang đánh vần một chữ lớn cho Hoa Kỳ: Armageddon (Trận Thư Hùng tối hậu giữa Thiện & Ác).
Thế giới sẽ ra sao nếu không có vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ? Nó sẽ không tốt đẹp – cho bạn và con cháu bạn. Sự suy vong của Hoa Kỳ sẽ diễn ra từng bước, như một Âu Châu già nua ngồi nhấm nháp cà phê phin cho đến khi diệt chủng (kể cả Hy Lạp quái đản hay Hồi Giáo nổi loạn). Không, sự suy vong của Hoa Kỳ sẽ là một viễn tượng đau đớn được đánh dấu bằng bạo động và có thể là ly khai.
Nhưng chẳng bao lâu sẽ chẳng còn xa lạ nữa. Phần lớn cuộc bàn thảo về cuộc hẹn của Hoa Kỳ với định mệnh mang một sắc thái quái đản mơ hồ của những thập niên giữa thế kỷ, tất cả đều liên quan đến những xu hướng dài tầm và những chỉ dấu xa vời khác. Thực tế, chúng ta sẽ có cơ may đến điểm hẹn trong tầm ngắn và còn đủ sức để tiêu ma trong tầm dài. Theo dự kiến của UBNSQH, vào khoảng năm 2055, những chi trả lãi nợ sẽ vượt quá lợi tức liên bang. Nhưng tôi không nghĩ chúng ta sẽ cần phải quan tâm về một "Chính Phủ Hoa Kỳ" vào giai đoạn đó. Khoảng năm 1788, chính phủ của Louis XIV ở Pháp chỉ chi tiêu có 60% lợi tức để trả lãi nợ, và chúng ta biết hậu quả như thế nào đối với dòng họ Bourbon ngay sau đó. Từ Đại Chính Phủ sang chính phủ sụp đổ, từ độc tài mềm sang ARMAGEDDON - Hãy nhìn chung quanh bạn. Từ nay trở đi mọi việc sẽ xấu đi hơn. Trong khoảng thời gian mười năm, sẽ không còn Giấc Mơ Mỹ, chẳng hơn gì Giấc Mơ Hy Lạp hay Bồ Đào Nha. Trong hai mươi năm nữa, bạn sẽ sống trong cơn Ác Mộng Mỹ, với những vùng đất bao la của đất nước bị giáng xuống thành những khu ổ chuột của Châu Mỹ La Tinh; những người giàu thì chạy sang Bermuda hay Tân Tây Lan hay bất kỳ ở đâu trên hành tinh mà họ có thể mua được một ít thì giờ, phần còn lại thì bị bẩy vào những hoang tàn đổ nát của phù du không tưởng bao phủ trong nghèo đói, bạo động và bệnh tật.
Hậu Hoa Kỳ? Vâng. Chúng ta sẽ sống vất vưởng một thời gian trong một hoàng hôn tranh tối tranh sáng, còm cỗi, bất lực, suy đốn thành một loại bệnh thần kinh xã hội, hết khả năng theo kịp với những gì đang xảy ra và với một bám víu ngoan cố hơn vào quá khứ. Trong một thời gian, có thể vẫn còn một thực thể mệnh danh là "Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ", nhưng nó sẽ có ít ngôi sao hơn trên lá cờ, sẽ không có cái gì gọi là "hiệp chủng" nữa, và nó sẽ không có một liên hệ nào với nền cộng hòa của chính phủ giới hạn mà thế hệ thứ nhất của người Mỹ đã chiến đấu bảo vệ. Và sự sống, tự do, và mưu cầu hạnh phúc sẽ dứt khoát không có.
america