- Cấu kết giữa Đức Quốc Xã và Do Thái
Từ ngữ
Zionist/Zionism (đọc 'zai-e-nizm') dùng chỉ những tổ chức hay phong trào Do Thái - hay ngắn gọn hơn, Do Thái - chủ trương thành lập nhà nước Israel bằng mọi thủ đoạn để đẩy những người Do Thái khắp thế giới sang định cư ở Palestine, càng nhiều càng tốt. Phần lớn những người Do Thái bị đẩy sang Israel không hề hay biết âm mưu của bọn
Zionist. Họ chẳng thấy lợi ích gì khi phải từ bỏ cuộc sống tiện nghi và thậm chí phồn thịnh của họ tại các quốc gia Âu Châu để phiêu lưu vào một cuộc sống bấp bênh đầy tại họa và với một tương lai bất định ở Palestine. Mục tiêu hàng đầu của bọn
Zionist – vượt trội mọi mục tiêu khác – là âm mưu thân yêu của chúng muốn khắc ra từ Trung Đông một quốc gia Israel mới, chỉ được cai trị bởi bọn cộng sản Do Thái. Quốc gia mới nầy sẽ là tiền đồn trong mưu đồ dài hạn của chúng nhằm chinh phục toàn cầu.
Nan đề chính của các thế lực
Zionist là dân số gốc Do Thái tại Israel sẽ quá ít ỏi so với các sắc tộc khác. Nếu là một nhà nước thần quyền hay Nhà Nước Do Thái (Theocratic Jewish State hay Jewish State) thì thiểu số Do Thái vẫn có thể cai trị đa số theo chế độ độc tài thần quyền, áp đặt ách thống trị lên những sắc dân khác đã, đang, và sẽ làm thành khối đa số bên trong biên giới Israel. Nhưng viễn tượng một nhà nước thần quyền như thế khó có thể trở thành hiện thực. Thực vậy, khi tuyên bố công nhận Nhà Nước Israel, Harry Truman chỉ công nhận một Nhà Nước Israel thế quyền (Secular State of Israel), nghĩa là một chế độ chính trị đại diện, thiểu số phục tùng đa số, ngoại trừ những chính sách phản dân chủ như Nam Phi cũ, những nhà nước thần quyền hay đảng quyền như các quốc gia cộng sản. Các giáo sỹ Do Thái thường rất tự hào tuyên bố Israel là quốc gia dân chủ duy nhất ở Trung Đông trong khi thiểu số Do Thái đang thực sự cai trị đa số ở Israel.. Nan đề nầy càng gay go hơn khi sắc dân Do Thái chủ trương tự do phá thai, con số những người đồng tính nhiều hơn các sắc tộc khác, sinh đẻ có kế hoạch hơn các sắc tộc khác, trong khi số người Do Thái ờ những quốc gia khác trên thế giới không còn bao nhiêu và nếu có thì họ cũng chẳng thiết tha di tản đến Israel như trước kia những đồng bào của họ đã làm vì mắc mưu của bọn
Zionist hay bị chúng cưỡng bức một cách gián tiếp hay trực tiếp ... Nan đề nầy đặt ra một thách thức vô cùng nghiêm trọng đối với giới lãnh đạo và giáo sỹ Do Thái trước thực tế sắc tộc Do Thái đã, đang và vĩnh viễn sẽ là một sắc tộc thiểu số bên trong lãnh thổ Israel.
Bất chấp nguyện vọng của những kiều dân Do Thái, bọn
Zionist cương quyết "lùa" họ đến Palestine với sự đồng lõa của một số thế lực chính trị trên thế giới, trong đó có Đức Quốc Xã của Hitler.
- Thỏa Ước Haavara
Hình ảnh mà đám
Zionist ở Hollywood dùng để minh họa Adolf Hitler như một tiểu quỷ (demonic villain) không hẳn là không đúng nếu xem xét sự kiện bọn
Zionist đã từng "phấn khởi" cấu kết với Hitler để thăng tiến mục tiêu tối hậu của chúng là "lùa" các kều dân Do Thái ở Âu Châu đến Palestine.
Thế giới quan của Đức Quốc Xã (ĐQX) – Nazi/German National Socialists - và chủ nghĩa
Zionist Do Thái tương đồng một cách đáng kinh ngạc. Do đó, khi Hitler lên nắm chính quyền vào năm 1933, bọn
Zionist lập tức đề nghị một thỏa ước với ĐQX nhằm đưa những người Đức gốc Do Thái sang Palestine, cùng với tài sản của họ. Đó là Thỏa ước
Haavara được ký kết vào ngày 25/8/1933 giữa chính phủ Đức và các tổ chức
Zionist. Đôi bên đã hợp tác chặt chẽ với nhau, với kết quả là 60 ngàn người Đức gốc Do Thái cùng tài sản của họ đã được đưa sang Palestine từ năm 1933 đến năm 1941.
Wikipedia ghi nhận:
Thỏa ước Haavara đã được chính phủ Đức phê chuẩn vào năm 1933 nhằm cho phép phong trào Zionist - dưới danh nghĩa là Công ty Haavara - được chuyển giao tài sản từ Đức sang Palestine, vì mục đích duy nhất là khuyến khích di dân Do Thái ra khỏi nước Đức. Công ty Haavara hoạt động theo một kế hoạch tương tự với tư cách là công ty
Hanotea trước kia.
Haavara Company yêu cầu những người di dân phải đóng ít nhất 1000 bảng Anh vào trương mục ngân hàng. Số tiền nầy sau đó được Đức xử dụng để xuất khẩu sang Palestine.
- Hợp tác song phương giữa ĐQX và phong trào Zionist
Sử gia Mark Weber đã phân tích thỏa ước
Haavara và những thỏa ước phụ trong một tài liệu mang tựa đề
"Zionism and the Third Reich." Theo Weber, ĐQX hậu thuẫn triệt để phong trào
Zionist như một cách khuyến khích người Do Thái rời Đức. Do đó ĐQX đã giúp các nhóm
Zionist xây dựng 40 trại huấn luyện và trung tâm nông nghiệp khắp nước Đức để huấn nghệ cho những di dân Do Thái sang Palestine. Bấy giờ luật chủng tộc Nuremberg năm 1935 cấm hôn nhân hay quan hệ tình dục dị chủng giữa người Đức và người Do Thái – một đạo luật nhận được sự hoan nghênh triệt để của đám
Zionist và những tín đồ Do Thái có chủ trương thuần chủng cho cộng đồng của họ; nhưng Hitler vẫn cho phép phong trào
Zionist treo quốc kỳ Do Thái với hai màu xanh/trắng – về sau là quốc kỳ của Israel. Hitler còn hậu thuẫn những tờ báo
Zionist khắp nước Đức.
Bản phân tích của Weber đã phơi bày mối quan hệ giữa hệ thống mật vụ Đức
SS (secret police) và nhóm võ trang
Haganah của
Zionist. Sự hợp tác giữa
SS và
Haganah bao gồm trao đổi thông tin cũng như những vận chuyển bí mật những vũ khí của Đức sang Palestine dùng để chống lại người Ả Rập ở Palestine. Một nhóm võ trang khác của
Zionist mang tên
Lehi (đôi khi còn gọi là
Stern Gang) đã thực sự đề nghị lập một liên minh quân sự với Hitler vào tháng 1/1941. Avraham Stern, thủ lãnh của nhóm
Lehi đã trao một đề nghị chính thức cho các nhà ngoại giao Đức ở Beirut nhằm thiết lập một liên minh chính trị và quân sự với ĐQX. Lúc bấy giờ, Stern xem Anh Quốc như là kẻ thù chính của chủ nghĩa
Zionist vì quốc gia nầy áp đặt những hạn chế trên việc nhập cư Do Thái đến Palestine. Trong đề nghị đó, Stern tuyên bố liên minh sẽ giúp Đức giải quyết vấn đề Do Thái và giúp nhóm võ trang
NMO (Lehi) tham chiến bên cạnh Đức. Tuy nhiên chính phủ Đức đã làm ngơ đề nghị của Stern.
Weber cho rằng Thỏa ước
Haavara đóng vai trò quyết định trong việc thành lập nhà nước Israel. Những số tiền khổng lồ và những trang bị nông nghiệp được chuyển đến Palestine qua công ty
Haavara có những hậu quả lâu dài đối với Palestine. Thỏa ước đó góp một phần rất lớn cho việc phát triển của Do Thái ở Palestine và như thế, một cách gián tiếp, cho việc thành lập nhà nước Israel. Tác giả Edwin Black cũng ghi nhận rằng thỏa ước trên đã tạo ra một bùng nổ kinh tế trong vùng đất Palestine của Do Thái và là một yếu tối then chốt trong việc thành lập nhà nước Israel. Weber kết luận, "Thỏa ước
Haavara là ví dụ điển hình nhất của âm mưu cấu kết giữa ĐQX và chủ nghĩa
Zionist quốc tế. Thông qua thỏa ước đó, hơn bất kỳ chính phủ nào khác trong thập niên 1930, ĐQX đã hậu thuẫn sự phát triển của Do Thái ở Palestine. Thực vậy, suốt thập niên 1930, không có một quốc gia nào làm hơn nước Đức của Hitler để giúp thăng tiến những nghị trình lập quốc Do Thái."
- Hitler trúng kế Do Thái
Về sau, cũng theo dự kiến và dàn dựng của tổ chức
Zionist, Hitler thi hành một chính sách quá đà, tập trung và tống xuất hàng triệu kiều dân Do Thái – phần lớn là những người vô tội – vào những trại tập trung; và như thế là Hitler đã hoàn toàn mắc mưu bọn
Zionist. Thực vậy, việc tống xuất người Do Thái khỏi Âu Châu là một kế sách đã có từ lâu trước khi có hành động của ĐQX. Vào năm 1936, Vladimir Jabotinsky, lãnh tụ của tổ chức
Zionist, nói rõ mục đích tối hậu của ông là tập trung tất cả nhưng người Do Thái trên thế giới vào phần đất ở Palestine: "Nhiệm vụ của chúng ta không phải là thành lập ở Palestine một quê hương cho những người ưu tú, thậm chí không phải một nhà nước cho một số ít người của dân tộc chúng ta. Mục tiêu nỗ lực của chúng ta là tổ chức một cuộc di tản qui mô và hệ thống những người Do Thái ra khỏi những quốc gia mà họ đang sống." Vào tháng 4/1940, Jabotinsky tuyên bố, "Thỏa ước di chuyển hàng triệu người Do Thái đến quê hương của họ sẽ cứu những người Do Thái Âu Châu khỏi bị diệt chủng. Di tản một số lượng khổng lồ những người Do Thái là phương án duy nhất chống đại họa cho Do Thái."
Có thể cái "đại họa" mà Jabotinsky đề cập là một điều kiện tiên quyết để thúc đẩy kế hoạch di tản của tổ chức
Zionist. Ở đây chúng tôi nhấn mạnh một lần nữa rằng phần lớn những người Do Thái bị đẩy sang Israel không hề hay biết âm mưu của bọn
Zionist. Họ chẳng thấy lợi ích gì khi phải từ bỏ cuộc sống tiện nghi và thậm chí phồn thịnh của họ tại các quốc gia Âu Châu để phiêu lưu vào một cuộc sống bấp bênh đầy tại họa và với một tương lai bất định ở Palestine. Một số người cho rằng tổ chức
Zionist cố tình khiêu khích Hitler để Hitler bài Do Thái kịch liệt hơn và giúp tăng tốc việc di dân của Do Thái sang miền "đất hứa" của họ.
- Bàn tay của tổ chức Organized Jewry ở Mỹ và Anh
Thực vậy, sau khi Hitler lên nắm chính quyền vào năm 1933 và trước khi chính phủ Đức thi hành những biện pháp nghiêm khắc nhằm hạn chế các quyền của người Do Thái ở Đức, tổ chức
Organized Jewry ở Mỹ và Anh đã bắt đầu phát động một chiến dịch tẩy chay kinh tế toàn cầu đối với hàng hóa của Đức. Trang nhất của nhật báo
Daily Express của Anh số 24/3/1933 chạy tựa:
"Judea Declares War on Germany: Jews of All the World Unite in Action." (Do Thái tuyên chiến với Đức: Do Thái trên toàn thế giới hãy đoàn kết hành động). Bài báo cho biết:
"Dân Do thái trên toàn thế giới tuyên bố chiến tranh kinh tế và tài chánh chống Đức. Mười bốn triệu người Do Thái hãy đoàn kết thành một để tuyên chiến với Đức. Những nhà bán sỉ Do Thái sẽ đóng cửa, ngân hàng Do Thái ngưng hoạt động chứng khoáng, những tiệm bán lẻ Do Thái ngưng hoạt động và những người nghèo sẽ bỏ nhà để nắm tay nhau trong một cuộc chiến chống lại dân tộc của Hitler."
Trong bối cảnh của một đợt suy trầm kinh tế nghiêm trọng, những chế tài như thế được chủ trương để giáng thêm tàn phá lên nền kinh tế mong manh của Đức. Chính Jabotinsky cũng góp phần không nhỏ trong âm mưu khiêu khích khi công khai tuyên bố vào tháng 1/1934:
"Từ nhiều tháng nay, cuộc chiến chống Đức đã được phát động trong cộng động Do Thái, trong mỗi hội nghị, trong tất cả mọi công đoàn của chúng ta, và bởi mọi người Do Thái khắp thế giới. Có lý do để tin rằng bổn phận của chúng ta trong cuộc chiến nầy có giá trị phổ quát. Chúng ta sẽ phát động một cuộc chiến tinh thần và vật chất toàn thế giới chống lại những tham vọng của Đức một lần nữa muốn trở thành một đại cường để lấy lại những lãnh thổ và thuộc địa đã mất. Những quyền lợi Do thái của chúng ta đòi hỏi phải tiêu diệt nước Đức."
Trong
The Jewish Declaration of War on Nazi Germany: The Economic Boycott of 1933, một tài liệu nghiên cứu về những căng thẳng giữa Do Thái và Đức dẫn đến Đệ Nhị Thế Chiến, Dr. M. Raphael Johnson ghi nhận chủ đích của tổ chức
Zionist muốn khuấy động giật dây Hitler để tăng tốc kế hoạch di tản người Do Thái sang Palestine. Johnson cho rằng "Cuộc chiến quốc tế dưới dự lãnh đạo của Do Thái chống chính phủ Đức không những khơi ngòi cho những vụ trả đũa của chính phủ Đức mà còn tạo điều kiện cho một liên minh kinh tế và chính trị ít người biết đến giữa chính phủ Hitler và đám lãnh đạo của phong trào
Zionist đang hy vọng sự căng thẳng giữa Đức và Do Thái sẽ đưa đến một làn sóng di dân lớn lao đến Palestine."
Trong cuốn
Germany Must Perish, xuất bản năm 1941, Theodore Kaufman - một tay cực đoan Do Thái luôn hô hào tận diệt tất cả người Đức – cũng ra sức khuấy động sự căm thù sâu hơn giữa người Đức và Do Thái. Joseph Goebbels, bộ trưởng tuyên truyền của Hitler, biết rất rõ về cuốn sách đó và phổ biến rộng rãi những nội dung của sách khắp nước Đức nhằm liên kết chống lại Do Thái. Không những loại trừ người Đức, Kaufman còn biểu lộ ý đồ thành lập một chính phủ thế giới dưới sự lãnh đạo của những tín hữu của y. Trong một cuộc phỏng vấn đăng trên tờ
Canadian Jewish Chronicle ngày 26/9/1941, Kaufman thẳng thừng tuyên bố:
Tôi tin rằng người Do Thái có một sứ mạng trong đời. Họ phải bảo đảm rằng các quốc gia trên thế giới phải liên kết thành một liên minh rộng lớn. 'Union Now' là khẩu hiệu khởi hành. Từ từ những chắc chắn, thế giới sẽ phát triển thành một thiên đường. Chúng ta sẽ có hòa bình vĩnh cửu. Và người Do Thái sẽ làm hết sức mình để thành lập liên minh nầy, vì phần thắng lợi lớn nhất thuộc về họ. Nhưng làm thế nào bạn có thể có được hòa bình nếu nước Đức tồn tại? Cách duy nhất để có được một hòa bình vĩnh cửu là trừng phạt bằng một cuộc chiến tranh khủng khiếp hơn mọi cuộc chiến tranh nào khác. Nhân loại bị trừng phạt bằng sát nhân, đúng không? Đúng vậy, nước Đức khởi sự tất cả những cuộc đại chiến. Chúng ta hãy vô hiệu hóa tất cả người Đức; và những cuộc chiến đô hộ thế giới của họ sẽ chấm dứt!
- Do Thái tài trợ cho Đức Quốc Xã
Chaim Weizmann, lãnh tụ phong trào
Zionist, cũng không làm gì nhiều để giảm bớt căng thẳng – thực ra ông đã làm mọi thứ trong quyền hạn của ông để gia tăng cường độ căng thẳng. Trong một bức thư gởi cho Thủ Tướng Anh Neville Chamberlain năm 1939, Weismann đã nhân danh người Do Thái tuyên bố,
Tôi muốn xác nhận một cách minh thị nhất những lời tuyên bố mà tôi và những đồng sự của tôi đã đưa ra... rằng Do Thái đứng về phía Anh Quốc và sẽ chiến đấu bên cạnh các quốc gia dân chủ. Chính những hành động và lời nói như thế đã khơi ngòi sự giận dữ của Hitler đối với người Do Thái, cuối cùng sẽ đưa đến chính sách bắt bớ và trục xuất của Hitler đối với người Do Thái một khi một thế chiến bùng nổ. Điều đáng chú ý là trong những nhật ký của ông, Theodore Herzl, một tay trùm
Zionist, có đề cập đến việc lợi dụng tinh thần bài Do Thái để tăng tốc mục tiêu của đám
Zionist nhằm tập trung tất cả những người Do Thái vào một nhà nước duy nhất. Herzl viết,
"Thật là một ý tưởng xuất sắc nếu lợi dụng những người bài Do Thái khả kính, có uy tín như những nhân tố phá hủy tài sản Do Thái. Những người bài Do Thái sẽ trở thành những người bạn đáng tin cậy nhất của chúng ta, và những quốc gia bài Do Thái sẽ trở thành những đồng minh của chúng ta."
Âm mưu của Herzl rất lợi hại vì có một số bằng chứng cho thấy rằng Hitler đã nhận được một số tài trợ từ những nguồn tiền Do Thái, ít nhất vào lúc đầu. Trong cuốn
Churchill's War, David Irving, sử gia nổi tiếng người Anh, có đề cập đến một bức thư của Heinrich Brüning (Thủ Tướng tiền nhiệm của Hitler) gởi cho Churchill. Brüning nhấn mạnh là bức thư nầy không được tiết lộ cho công chúng vì nội dung của những gì ông trình bày trong đó. Thư viết,
"Từ tháng 10/1928, hai nhân vật đóng góp thường xuyên quan trọng nhất cho Đức Quốc Xã (Nazi Party) là những tổng giám đốc của hai ngân hàng lớn nhất ở Berlin, cả hai đều theo Do Thái Giáo, và một trong hai là lãnh tụ của phong trào Zionist ở Đức." Samuel Untermyer - một thương gia thuộc phong trào
Zionist và là một lãnh tụ dân sự ở Hoa Kỳ đã từng lãnh đạo chiến dịch tẩy chay kinh tế Đức năm 1933 – cũng tiết lộ vụ tài trợ của Do Thái dành cho ĐQX. Trong một chương trình phát thanh của đài
WABC ở New York ngày 6/8/1933, Untermyer tuyên bố,
"Trên phương diện nghiên cứu tâm lý học, người ta nên phân tích nhũng động cơ ... đã thôi thúc những chủ ngân hàng Do Thái cho Đức vay tiền như hiện nay họ đang làm." Giáo sỹ Edward L. Israel thuộc phong trào
Zionist ở Hoa Kỳ cũng đưa ra cùng nhận định. Ông viết trong tờ
Pittsburgh Press , số ngày 20/11/1933,
"Chúng ta không thể phủ nhận sự kiện đen tối là, trong khi Hitler vươn lên nắm quyền, một số người Do Thái giàu có đã tài trợ chiến dịch của Hitler."
- Tương đồng giữa chủ nghĩa Zionist và ĐQX
Thực vậy, ĐQX và chủ nghĩa
Zionist có nhiều điểm tương đồng. Trong cuốn
Lest We Forget xuất bản năm 1943, Douglas Reed, một nhà báo Anh nổi tiếng đã tiếp vận một cuộc đàm thoại của ông với một nhà báo Do Thái ở Prague năm 1939 nói về một giáo sỹ địa phương Do Thái đang giảng đạo trong những nhà thờ cho rằng Hitler là một "Jewish Messiah" (Chứa Cứu Thế Do Thái). Những người Do Thái khác tuyên bố Hitler là một "Messenger of God" (Sứ thần của Thượng Đế) được phái xuống để tăng tốc công trình của chủ nghĩa
Zionist. William Zukerman, một nhà báo Mỹ gốc Do Thái, ghi nhận điều nầy trong một bài báo tựa đề
Zionism in Nazi-Land được phổ biến trong tờ
Canadian Jewish Chronicle, số ngày 9/8/1935:
Dù phong trào Zionist muốn hay không muốn điều đó, họ không thể làm ngơ trước sự kiện là họ chia xẻ với Đức Quốc Xã những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa nầy. Thuyết Zionist hoàn toàn chấp nhận và hậu thuẫn lời tuyên bố của ĐQX cho rằng người Do Thái ở Đức và những quốc gia khác là những người "ngoại quốc. Một số thành viên Zionist thường nói về Hitler như là một sứ thần của Thượng Đế được phái xuống để tăng tốc công trình của chủ nghĩa Zionist. Tất cả hoạt động của phong trào Zionist đều hướng về mục tiêu chủ yếu của ĐQX: di tản người Do Thái ra khỏi nước Đức. Đó là mọt kế sách Zionist mà gần đây chúng ta đã hoàn chỉnh để di tản tập thể tất cả những người Do Thái khỏi Đức trong vòng 25 năm. Chế độ ĐQX rất nôn nóng thực hiện một cao trào di dân như thế của người Do Thái nên họ sẵn sàng hậu thuẫn triệt để thậm chí đối với phong trào xã hội Do Thái bao lâu phong trào nầy thăng tiến một mục tiêu như thế."
- Định mệnh của Do Thái là làm chủ thế giới
Trong cuốn
A Program for the Jews, Harry Waton, một tác giả và đồng thời là một giáo sỹ Do Thái, nói rằng ĐQX là một mô phỏng của chủ nghĩa
Juda (Judaism) vì ĐQX đã đón nhận những nguyên tắc và tư tưởng của chủ nghĩa
Judaism để đánh bại sức mạnh Do Thái. Tác giả đề cập nhiều về những lý tưởng bá quyền của chủ nghĩa ĐQX, nhưng lại nói rất ít về chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc Do Thái. Theo giáo sỹ Waton trong cuốn sách vừa đề cập ở trên, người Do Thái là một dân tộc thượng đẳng có sứ mạng cai trị thế giới. Ông giải thích,
"Vì người Do Thái là dân tộc thượng đẳng và có văn hóa cao nhất trên trái đất nên họ có quyền khuất phục phần còn lại của nhân loại để làm chủ trên toàn trái đất ... đó là định mệnh mang tính lịch sử của người Do Thái." Giáo sỹ bá quyền nầy cũng cho rằng người Do Thái chủ yếu là những thượng đế dưới đất.
Ông nói, "Người Do Thái nên nhận thức rằng Chúa Trời (Jehovah) không còn ngự trên trời nữa, mà đang ngự trong chúng ta ngay trên mặt đất; chúng ta không còn phải nhìn lên Chúa Trời như ngài ở bên trên chúng ta và bên ngoài chúng ta nữa, mà chúng ta phải nhìn ngài ngay bên trong chúng ta."
Những lời tuyên bố bá quyền loại nầy rất phổ thông trong các giới Do Thái theo chủ nghĩa nước lớn. Chaim Weizmann, chủ tịch lâu đời của tổ chức World Zionist Organization (WZO) và sau nầy là thủ tướng đầu tiên của Israel, đã theo đuổi nghị trình
Zionist một cách triệt để. Để đe dọa những ai phản đối quyết tâm chinh phục Palestine và khuất phục người dân ở đó, Weizmann tuyên bố:
"Chúng tôi đã đạt được Bản Tuyên Bố Balfour (Balfour Declaration) không phải do phép lạ, mà do liên tục tuyên truyền, do không ngừng thể hiện sức sống của dân tộc chúng tôi. Chúng tôi đã nói với các giới hữu trách: Chúng tôi sẽ lập quốc ở Palestine bất luận các ông có muốn hay không. Các ông có thể giúp làm nhanh hơn hay làm chậm lại mục tiêu của chúng tôi. Tuy nhiên, tốt hơn các ông nên phục tùng chúng tôi để khỏi biến những sức mạnh xây dựng của chúng tôi thành sức mạnh phá hoại đưa đến lật đổ thế giới."
- Cấu kết giữa Anh và Do Thái
Bản Tuyên Bố Balfour mà Weizmann đề cập chính là nghị định thư 1917 của Anh (decree) nhằm thành lập một quê hương cho người Do Thái ở Palestine. Theo Weizmann, bản tuyên bố đó không phải là một cam kết hữu cơ (organic pledge) xuất phát từ bất kỳ quan điểm đạo đức nào về phía chính phủ Anh, mà là một phó sản của sự cưỡng bách từ phía tổ chức
Zionist thì đúng hơn. Với tư cách là đại diện lãnh đạo của phong trào
Zionist, Weizmann có những liên hệ thân thuộc với tất cả những lãnh tụ chính trị của Anh và Mỹ kể từ Đệ Nhất Thế Chiến. Cũng như Đệ Nhị Thế Chiến tiếp theo sau đó, Đệ Nhất Thế Chiến là một điều kiện tiên quyết cho phong trao lập quốc Do Thái chiếm lấy Palestine.
Vào đầu thập niên 1900, Palestine bị đặt dưới sự đô hộ của Đế Quốc Ottoman (ngày nay là Thổ Nhỉ Kỳ). Bất chấp nhiều đề nghị của phong trào
Zionist, muốn mua Palestine từ tay Đế Quốc Ottoman, Abdul Hamid II, Hoàng Đế Ottoman, không muốn từ bỏ Palestine. Đó là đầu mối đưa đến Đệ Nhất Thế Chiến. Sự thất bại của Đế Quốc Ottoman trong Đệ Nhất Thế Chiến đã khiến Đế Quốc nầy tan rã, giúp giải phóng vùng đất Palestine và vùng đất nầy nhanh chóng thuộc về Đế Quốc Anh vào năm 1922. Hội Quốc Liên (League of Nations), một tổ chức quốc tế được thành lập sau Đệ Nhất Thế Chiến nhằm thực thi những thỏa ước toàn cầu, đã hợp thức hóa việc chiếm đóng Palestine của Anh bằng cách chính thức phê chuẩn trên một văn kiện do chính phủ Anh soạn thảo, phác họa những kế hoạch biến Palestine thành một "quê hương" cho người Do Thái theo Bản tuyên Bố Balfour năm 1917 được đề cập ở trên. Sự kiện Hội Quốc Liên phê chuẩn việc xâm chiếm phi pháp nầy cũng là một hậu quả của âm mưu
Zionist. Vào năm 1922, Nahum Sokolow, chủ tịch của Ủy Ban
Zionist Executive Committee , thú nhận rằng chính Hội Quốc Liên không gì hơn là một công cụ của phong trào
Zionist. Tại một hội nghị
Zionist ở Carlsbad, California, ông tuyên bố,
"Hội Quốc Liên là một sáng kiến Do Thái, và một ngày kia Jerusalem sẽ trở thành kinh đô của hòa bình thế giới. Hội Quốc Liên đã công nhận chúng ta được quyền có quê hương cũ của chúng ta. Chúng ta những người Do Thái khắp thế giới sẽ biến nỗ lực của Hội nầy thành nỗ lực của chính chúng ta và sẽ không ngưng nghỉ cho đến khi đạt được thắng lợi cuối cùng."
- Do Thái giật dây Hoa Kỳ
Trong Đệ Nhất Thế Chiến, phong trào
Zionist đã tiếp cận giới lãnh đạo Anh với một đề nghị sẽ đẩy Hoa Kỳ vào cuộc chiến bên cạnh Anh với điều kiện Anh đồng ý trao Palestine cho phong trào nầy. Hậu quả của âm mưu hậu trường nầy là Hoa Kỳ lâm chiến và sau đó ra đời Bản Tuyên Bố Balfour năm 1917. Chaim Weizmann thú nhận vai trò của phong trào
Zionist trong việc giúp Anh thắng Đệ Nhất Thế Chiến như một cách để bảo đảm những cam kết của Anh và tăng tốc sự sụp đổ của Đế Quốc Ottoman.
David Irving, một sử gia người Anh, khám phá ra một bức thư mà Weizmann đã gởi cho Churchill đề ngày 10/9/1941, trong đó Weizmann cho thấy một thú nhận đồng thời cũng là một yêu cầu đáng kinh ngạc. Ông viết:
Tôi đã ở Hoa Kỳ nhiều tháng, xuôi ngược khắp nước và nhất quyết tìm hiểu sân khấu chính trị Hoa Kỳ. Những lực lượng ở đó khá cân bằng; vị trí thì bất định. Chỉ có một nhóm sắc tộc lớn muốn đứng về phía Anh Quốc và một chính sách hết lòng giúp đỡ Anh Quốc: Năm triệu người Do Thái. Từ Ngoại Trưởng Morgenthau, Thống Đốc Lehman, thẩm Phán Frankfurter, xuống đến người công nhân hay thương gia Do Thái bình thường nhất, họ đều ý thức được tất cả những hàm ngụ trong cuộc chiến chống Hitler.
Những chính khách Anh đã nhiều lần thừa nhận rằng, trong cuộc chiến vừa qua, chính người Do Thái đã hành động để làm cho cán cân ở Hoa Kỳ lệch về phía Anh Quốc. Họ cương quyết làm chuyện đó – và có thể làm thế một lần nữa. Nhưng Ngài đang đối diện với những con người bằng xương bằng thịt, và cảm thức sơ yếu nhất về lòng tự trọng vạch ra những giới hạn phục vụ, cho dù có cương quyết đến đâu, nếu sự đáp ứng không gì hơn là khước từ và hạ nhục. Người Do Thái ở Hoa Kỳ đang chờ đợi một lời – một tiếng gọi – từ Chính Phủ của Ngài. Tín hiệu đó sẽ khiến một lực lượng chiến đấu Do Thái thành hình.
- Do Thái đang cai trị Hoa Kỳ
Benjamin Freedman- một thương gia thành công người Mỹ gốc Do Thái đã ly khai khỏi phong trào
Zionist trong thập niên 1950 - đã xác nhận phần lớn sử sách nói về âm mưu Do Thái liên quan đến Đệ Nhất Thế Chiến và đến việc Do Thái xâm chiếm Palestine. Freedman là một thân tín của một số tổng thống Mỹ và những tay quan liêu cao cấp trong Liên Hiệp Quốc và đo đó có được cái nhìn bên trong về những chính sách quốc tế. Năm 1961, Freedman đọc một bài diễn văn tại Khách Sạn
Willard Hotel ở Washington D.C., trong đó ông cho biết chi tiết những biến cố dẫn đến Đệ Nhất Thế Chiến và Bản Tuyên Bố
Balfour Declaration. Freedman cho rằng Hoa Kỳ đã bị bẫy vào cuộc chiến chỉ để giúp cho phong trào
Zionist chiếm được Palestine. Ông nói thêm,
"Ngày nay Anh Quốc có quyền hứa trao Palestine cho bất kỳ ai cũng như Hoa Kỳ có thể hứa trao Nhật Bản cho Ireland, chẳng hạn, với bất cứ lý do nào. Quả thực vô lý khi Anh Quốc – vốn không bao giờ có một liên quan, quyền lợi hay quyền hạn gì cả trong cái được biết như là Palestine – lại xử dụng nó như một loại tiền tệ để trả nợ cho phong trào Zionist vì phong trào nầy đã đẩy Hoa Kỳ vào cuộc chiến... Tổ chức Zionist hoàn toàn kiểm soát chinh phủ của chúng ta... Họ và những tín hữu của họ đang cai trị Hoa Kỳ tựa như họ là những tay quân chủ chuyên chế của quốc gia nầy."
- Do Thái kiểm duyệt Internet
Vì đối mặt với nỗi tuyệt vọng mang tính định mệnh nên ngày nay Do Thái đang làm hết sức mình để đàn áp thế giới bằng ám sát và bịt miệng phong trào bài Do Thái đang lan rộng ở Hoa Kỳ và thế giới. Một trong những mặt trận đàn áp của Do Thái là
Internet. Vào tuần lễ thứ nhì của tháng 5/2015, Do Thái đã tổ chức cuộc hội thảo lần thứ năm mang tên
Global Forum for Combating Anti-Semitism (GFCA) ở Jerusalem, do đích thân chính phủ Israel tổ chức nhằm vừa ve vãn các nhà ngoại giao và chủ cơ sở kinh doanh khắp thế giới vừa răn đe họ phải đàn áp những người nói xấu Israel. Hội thảo đó đã đưa ra lệnh kiểm duyệt
Internet, một mệnh lệnh mang tính độc tài theo kiểu Trung Quốc. Tờ
Jerusalem Post của Israel số ngày 14/5/2015 chạy tựa
“Government anti-Semitism conference endorses net censorship.” Bài viết ghi nhận rằng những người tổ chức hội thảo "đã đưa ra một kế hoạch hành động yêu cầu kiểm duyệt
Internet như một biện pháp chống tinh thần bài Do Thái." Kế hoạch hành động nầy bao gồm (i) "Xóa bỏ những trang mạng phủ nhận
Holocaust khỏi
Internet, (ii) Xóa bỏ khỏi các hệ tìm (
web searches) những trang mạng và những nội dung bị cho là
''hate websites," (iii) Thành lập một cơ quan quốc gia trong mỗi nước để thực thi cái mệnh danh là
legislation và (iv) Yêu cầu những công ty cung ứng dịch vụ mạng (ISP) phải thực thi những 'qui định' cấm chứa chấp những nội dung bị cho là
'hate content, hate speech, và anti-Semitism'. "
Âu Châu đang áp dụng những đạo luật nghiêm khắc cấm chỉ trích Do Thái. Nói cách khác, Do Thái đang cổ xúy một nhà nước công an trị toàn cầu trong đó mọi thông tin cho công chúng trước tiên phải được sự chuẩn thuận của những cơ quan kiểm duyệt thân Do Thái.
Biên dạng thế kỷ 21
- Mục tiêu thứ nhất của Do Thái là xâm chiếm Palestine để lập quốc, trước tiên bằng cách khơi ngòi Đệ Nhất Thế Chiến, sau đó bẫy Hoa Kỳ lâm chiến bên cạnh Anh với điều kiện chính phủ Anh phải trao Palestine cho Do Thái sau khi Anh thắng trận.
- Ngay khi Hitler lên nắm chính quyền ở Đức, Do Thái đã cấu kết với Đức Quốc Xã để cho phép vận chuyển tài sản người Do Thái đến Palestine và gián tiếp lùa người Do Thái đến Palestine bằng cách khiêu khích Đức Quốc Xã chống người Do Thái, đưa đến Đệ Nhị Thé Chiến.
- Ngày nay Israel đã được thành lập, nhưng đó cũng chỉ là một nhà nước thế quyền với tỉ lệ sắc tộc Do Thái quá nhỏ so với những sắc tộc khác bên trong biến giới Israel, và tỉ lệ nầy càng ngày càng nhỏ hơn. Đó là một thách thức nghiêm trọng đối với một chế độ chính trị thế quyền. Dường như đám lãnh đạo Israel và những giáo sỹ Do Thái đang đối mặt với định mệnh, cho dù họ có thừa mưu lược, tiền bạc, vũ khí, và những chính quyền tay sai từ Hoa Kỳ, Canada, Tây Âu, đến Úc và Tan Tây Lan... chưa kể những đồng minh cộng sản của họ.
- Ngoài cái nhà nước Israel nhỏ bé, nghèo nàn, và đầy hiểm họa, Do Thái còn có một giấc mộng bá chủ mệnh danh là Trật Tự Thế Giới Mới (New World Order) đã và đang được dàn dựng bởi hệ thống siêu quyền lực
Illuminati của các tay trùm Do Thái quốc tế. Kinh đô của thế giới mới hiện là Jerusalem được Hoa Kỳ chính thức công nhận, với sự kiện
ông Donald Trump cho di dời tòa đại sứ Mỹ đến đây sau khi nhận khoản "tiền cống hiến" $82 triệu
từ tay tên chủ sòng bài Do Thái Sheldon Adelson. Trước khi tiến đến cái Trật Tự Thế Giới Mới nầy, biên giới chủng tộc và địa lý của mọi quốc gia quy ước sẽ bị xóa sạch để sát nhập vào cái gọi là
One-World Government dưới sự cai trị của Do Thái vô gia cưMặc dù vì "định mệnh lịch sử của Do Thái là làm chủ thế giới" (Harry Waton). Khi bọn vô gia cư thuyết phục bạn xuống đường để thiết lập cái mệnh danh là Thế Giới Đại Đồng, Chủ Nghĩa Toàn Cầu, Chính Phủ Toàn Cầu, Trật Tự Thế Giới Mới... điều đó có nghĩa là bạn hãy ra khỏi nhà để chúng cướp nhà cướp của, biến bọn vô gia cư thành chủ nhân ông và chủ nhân ông thành trâu ngựa.
- Như thế, Do Thái đã và đang thay mặt Thượng Đế để an bài thế giới. Nếu mưu đồ an bài nầy không thành thì đó sẽ là tận thế theo lời đe dọa của Chaim Weizmann:
"Tốt hơn các ông (thế giới) nên phục tùng chúng tôi để khỏi biến những sức mạnh xây dựng của chúng tôi thành sức mạnh phá hoại đưa đến lật đổ thế giới." Giác mơ hoang tưởng đó không phải mới có mà đã có từ hơn một thế kỷ nay, nhưng đã đi đến đâu? Ngay cả Putin cũng xem cái Trật tự Thế Giới Mới đó chẳng khác gì một lâu đài xây trên cát. Giới trí thức, nhà văn, học giả, chính trị gia Hoa Kỳ và Tây Phương càng ngày càng lớn tiếng công khai phơi bày những âm mưu của tập đoàn
Illuminati Do Thái, trên mạng cũng như trong các ấn phẩm. Ngay cả những người "yếu bóng vía" nhất cũng bắt đầu thấy ít "cứng hàm" khi đề cập đến hai tiếng
"Do Thái" và
"bài Do Thái (antisemitism)." Một lần nữa ở đây, Do Thái dường như đã và đang đối mặt với định mệnh, nhưng đây không phải là thứ "định mệnh lịch sử" như Harry Waton vừa đề cập ở trên mà là một định mệnh của những con người bất toàn bất túc, tham lam, lừa đảo, độc ác và mưu lược. Do Thái bây giờ hành xử chẳng khác nào một con thú dữ đang lồng lộn với số mệnh bằng cách gieo rắc những tai ương cho nhân loại từ vụ khủng bố 9/11 đến các cuộc chiến xâm lăng Iraq, Afghanistan, Libya...đến những đợt khủng bố lớn nhỏ ở Hoa Kỳ, Trung Đông, Âu Châu... thông qua bàn tay của bọn đồ tể
al Qaeda, ISIS.. cùng với bọn tòng phạm trong các chính quyền tay sai. Bất hạnh thay, nạn nhân của những vụ khủng bố nầy phần lớn là những người vô tội, nhất là phụ nữ và trẻ em.
- Khi Do Thái chịu phận trời đày không đất dung thân thì những dân tộc khác không dễ gì yên thân với chủ quyền quốc gia riêng của họ. Khẩu hiệu thường xuyên trên của môi của Do Thái là :
"THAY ĐỔI, THAY ĐỔI và THAY ĐỔI." Đó cũng là khẩu hiệu tranh cử của ông Barak Obama (
"Change we can believe in"). Nhưng đối với Do Thái,
THAY ĐỔI không gì khác hơn là chiến tranh, dịch bệnh, khủng bố, phá hoại, nợ vay, âm mưu và tội ác - những thuộc tính của những tên vô gia cư chính trị. Phó sản của chủ nghĩa
Zionist chính là Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản, Chủ Nghĩa Cộng Sản, và Quốc Tế Cộng Sản. Cường độ và phạm vị của những âm mưu "khủng bố" và gây chiến càng lớn thì Do Thái và các chính phủ tay sai càng hô hào và hâm nóng chiêu bài "cuộc chiến chống khủng bố," một thủ đoạn tiến đến thiết quân luật toàn cầu và áp đặt chủ nghĩa toàn trị mệnh danh là
One-World Government do tập đoàn cộng sản
Illuminati cai trị.
- James Morcan:
"He didn’t know if Omega controlled the Bilderberg Group or vice versa, but the situation reminded him that no matter how much anyone thought they knew about the New World Order elite, there were always higher levels in the plethora of secret societies and shadow organizations that ruled the planet... To achieve its New World Order plans, the Omega Agency needed people who could make use of their primordial instincts, who wouldn’t question the morality of orders and who would kill without hesitation." (Không rõ Hệ Thống Siêu Quyền Lực Do Thái có kiểm soát Nhóm Bilderberg Group hay ngược lại, nhưng hoàn cảnh nhắc nhở rằng, bất luận người ta nghĩ mình biết đến đâu về Trật Tự Thế Giới Mới, luôn luôn có những trình độ cao hơn trong vô số những hội kín và tổ chức ma đã và đang cai trị hành tinh… Để hoàn thành kế hoạch Trật Tự Thế Giới Mới của họ, Hệ thống Siêu Quyền Lực Do Thái cần những người có thể xử dụng những bản năng man khai của họ, không thắc mắc về đạo đức và giết người không gớm tay.)
- Do Thái chỉ duy nhất trung thành với chính họ. Họ không trung thành với bất kỳ chủ nghĩa nào, nhất là chủ nghĩa cộng sản mà chính họ thiết lập vì chủ nghĩa nầy chỉ là phương tiện với cứu cánh trên danh nghĩa là giải phóng giai cấp vô sản, một giai cấp hoàn toàn không có liên quan gì với tập đoàn tài phiệt Do Thái gồm những chủ ngân hàng từng tài trợ đắc lực cho Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản. Những "lý thuyết gia Mác Lê" chẳng qua là những chuyên viên chế biến cứt bò cho bọn chủ ngân hàng Do Thái. Mặc dù Do Thái không trung thành với chủ nghĩa cộng sản do chính họ sáng lập, họ luôn luôn cần những chế độ cộng sản, vì họ cần bạo lực độc tài chuyên chế để cai trị thế giới. Họ cần các chế độ cộng sản để "thuần hóa" phần còn lại của nhân loại, bần cùng hóa trí óc của họ, thui chột trí khôn của họ và tiêu diệt mọi tiềm năng đối lập, phê phán và phản kháng của họ nhằm, trước tiên, biến một phần bọn tay sai thành một đàn chó Pavlov được ủy quyền để cai trị đần cừu khổng lồ rỗng não. Nhân loại càng kinh qua nhiều chiến tranh, bạo động, dịch bệnh,và nợ nần bao nhiều thì Do Thái càng hưởng lợi bấy nhiêu. Ngoài Israel, Do Thái không trung thành với bất kỳ quốc gia nào khác, kể cả Hoa Kỳ. Họ không đứng về phía đảng phái nào cả, nhất là Cộng Hòa hay Dân Chủ, cộng sản hay không cộng sản. Họ luôn luôn phân thân để đứng cả hai phía và bên nào thắng cũng đểu làm tay sai cho chọ. Họ đang nhìn về một viễn tượng Trật Tự Thế Giới Mới rộng lớn hơn,với thủ đô mỗi lúc một xa dần, trước tiên là Jerusalem và sau đó, biết đâu, sẽ là Washington, Bắc Kinh hay Moscow? Quốc gia cuối cùng của Do Thái sẽ là toàn cõi hành tình nầy, trong đó tập đoàn Do Thái đứng ra cai trị và phần còn lại của nhân loại chỉ là những bầy nô lệ - kể cả giống dân Anglo-saxon từng có công lập quốc Hoa Kỳ.
- Ngày nay, chiến tranh quy mô lớn như hai đại thế chiến sẽ dễ đưa đến chiến tranh hủy diệt hàng loạt. Khi phần lớn thế giới bị vũ khí hạt nhân tiêu diệt, Israel khó trở thành ngoại lệ. Do đó lựa chọn thay thế đã, đang, và sẽ là đại dịch, như Coronavirus hiện nay. Trong khi, cho đến nay, nhân loại mất đi khoảng 5.5 triệu người, thiệt hại kinh tế khủng khiếp, núi nợ vay từ các ngân hàng Do Thái lên cao, thì các tập đoàn dược phẩm cá mập của Do Thái như Pfizer và Moderna làm giàu phi mã với thuốc chủng ngừa, hết đợt nầy đến đợt khác, và không ai biết sẽ phải leo thang đến mũi thứ mấy. Sau Delta và Omicron sẽ là những biến thể mới nào nữa? Chỉ có trời biết các loại thuốc chủng mang theo những vũ khí sinh học siêu vi nào nhằm điều khiển não bộ người dùng, kiềm hãm sự phát triển não, vô hiệu hóa khả năng phản kháng và triệt tiêu chính bản thân họ khi cần. Không phải tự phát hay tùy tiện mà nhiều thành phần trên thế giới, kể cả Âu Châu, Hoa Kỳ và thậm chí một số không nhỏ những thành viên Đảng Cộng Hòa, từ chối chủng ngừa. Đối với thành phần kia của nhân loại, chủng ngừa có thể đồng nghĩa với chấp nhận thua cuộc, mặc cho số phận.
- Thực tế cho thấy không ít những nguyên thủ quốc gia trên địa cầu nầy được Do Thái "đầu tư" từ trong trưng nước, điển hình thông qua hội kín hắc ám mang tên "Đầu Lâu Xương Sọ (Skulls & Bones)". Sản phẩm điển hình của hội kín khét tiếng đó là George W. Bush (Cộng Hòa) và John Kerry (Dân Chủ). Như một quy luật vay trả, sau khi "đắc cử", các tổng thống Mỹ phải lần lược "trả nợ." Một trong những thanh toán nợ cưỡng bách trước tiên là bố trí cho Do Thái một số ghế nội các trong chính quyền tân cử, đi đầu là bộ Ngoại Giao và Quốc Phòng. Chính sách đối ngoại của Mỹ không thể đi ngoài và đi ngược nghị trình Israel. Như một Nhà Nước Chìm ẩn mình trong bóng tối, Do Thái cai trị thế giới bằng ủy nhiệm. Không ít những nguyên thủ quốc gia trên thế giới ngày nay, đi đầu là các tổng thống Mỹ, được bố trí như những viên toàn quyền trá hình của Do Thái đế cai trị các thuộc địa trá hình. Thậm chí Do Thái còn núp dưới những bình phong từ thiện để đi lượm các trẻ mồ côi và con rơi con rớt trên hành tinh, mang về đào tạo thành những tay sai đắc lực nắm đầu nhân loại. Thực tế cho thấy phần lớn những chủ thuyết, giáo điều trên trái đất đều là những biến thể của CHỦ NG HĨA LƯU MANH Do Thái. Những định chế quốc tế hàng đầu là những then máy nham hiểm của chủ nghĩa nầy. Do Thái làm chủ hầu như toàn bộ hế thống ngân hàng thế giới, độc quyền phát hành tiền tệ thông qua cái mệnh danh là Federal Reserve và cho chính phủ Mỹ vay nợ lấy lãi, độc quyền bán nợ và buôn chủ quyền, làm chủ 96 % truyền thông thế giới, làm chủ kỹ nghệ giải trí, âm nhạc, in ấn và phát hành, hầu như độc quyền nhồi sọ và lừa bịp nhân loại, làm chủ các đại học hàng đầu của Mỹ như Yale, Princeton, Havard..., làm chủ kỹ nghệ y dược, độc quyền thao túng sộ phận sinh học nhân loại và điều khiển não bộ nhân loại . Vận động hành lang (lobby) là một trong những then máy đại lưu manh của hệ thống chính trị Hoa Kỳ, đặt trong tay bọn Do Thái giàu có để tiêu diệt nền dân chủ nước này ngay từ trong cơ quan lập pháp mệnh danh là Quốc Hội Hoa Kỳ. Hầu như toàn bộ người Mỹ ngày nay đều vay mượn những tiện nghi vật chất và tinh thần, hay cuộc sống nói chung của họ từ các chủ ngân hàng Do Thái. Có một thời họ đã cố vùng vẫy phản kháng với Phong Trào Chiếm Đóng Phố Wall (Occupy Wall Street) năm 2011; nhưng cuối cùng chẳng đi đâu: Chủ Nghĩa lưu Manh và Chủ Nghĩa Độc Tài Mềm Do Thái vẫn thắng thế.
- Riêng đối với dân tộc Việt Nam, Do Thái đã phạm một tội ác diệt chủng ghê tởm khi chúng dùng Chiến Tranh Việt Nam để khai thác và tiêu thụ nha phiến Tam Giác Vàng, núp dưới chiêu bài ý thức hệ. Âm mưu Do Thái làm giàu trên xương máu dân tộc Việt Nam đã gây tử vong cho khoảng 2 triệu thường dân ở cả hai bên, khoảng 1,100,000 cán binh Bắc Việt và Việt Cộng trong Nam, khoảng 200,000 đến 250,000 binh sỹ Miền Nam. Con số tử vong về phía Hoa Kỳ và đồng minh là 282,000. Do Thái cài cấy những tên trùm như Israel Epstein, Sidney Shapiro làm bộ trưởng tài chánh và tuyên truyền trong chính quyền Mao Trach Đông để hậu thuẩn Bắc Việt, và duy trì "cuộc chiến chống Mỹ cứu nước" trong "tinh thần hữu nghị cộng sản quốc tế." Cùng lúc đó, Do Thái xử dụng những tổng thống bù nhìn như Nixon, Johnson để tiến hành "chiến tranh ý thức hệ "ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản" hay "chiến tranh chống cộng," một cuộc chiến phi nhân giúp Do Thái làm giàu bằng ma túy. Hóa ra tất cả những chủ thuyết của ca hai bên đều là những bãi phân bò vừa tanh mùi cứt vừa tanh mùi máu. Khi ma túy Tam Gác Vàng không còn giá trị kinh tế, Do Thái chuyển trục sang nha phiến Lưỡi Liền Vàng ở Trung Á, xách động các phong trào phản chiến để bán đứng Việt Nam cho Trung Quốc. Xương máu và tiền của do dân tộc Việt Nam và Hoa Kỳ đài thọ, quyền lợi thì Do Thái độc quyền hưởng. Ở điểm nầy, John L. Potash trong "Drugs as Weapons Against Us" thẳng thắn nhận định:
The Vietnam War is about drugs. There are these secret societies behind it. Communism is all a sham, these same secret societies are behind it all." (Ma túy là nguồn gốc của Chiến Tranh Việt Nam. Có những hội kín đứng phía sau cuộc chiến đó. Cộng sản chỉ là một trò bịp, cũng chính những hội kín nầy đứng phía sau tất cả cái trò bịp đó). Những hội kín đó chính là Do Thái.
Phát hiện của Alfred W. McCoy trong
"The Politics of Heroin - CIA Complicity in the Global Drug Trade": North Vietnamese soldiers found dead with syringes on their arms on the slopes of Khe Sanh... Communist trucks rolling down the Ho Chi Minh Trail loaded with heroin for GIs.
(Người ta thấy Bộ đội Bắc Việt nằm chết trên các sườn đồi Khe Sanh tay còn ghim ống chích ma túy... những xe tải Cộng Sản chở ma túy cho lính Mỹ).