Trường Phái Lăng Mạn trong Văn Học Pháp

Quelques Vues Générales sue le Romantisme Français – Allais Gustave

Phần II:  Bi Quan Dục Vọng (Pessimisme Passionnel)

Lương Tấn Lực
Licence d’Enseignement en Littérature Française - Université de Saïgon
Licence d’Enseignement en Philosophie Occidentale - Université de Saïgon


“On habite, avec un cæur plein, un monde vide; et, sans avoir usé de rien, on est désabusé de tout.”

 

“On habite, avec un cæur plein, un monde vide; et, sans avoir usé de rien, on est désabusé de tout.- Chateaubriand

 

Như đă tŕnh bày trước đây, nếu có những yếu tố và động lực cảm hứng mà thế kỷ mười tám đă để lại cho thi ca lăng mạn th́ cũng có những yếu tố khác chỉ đến từ Chateaubriand và Mme de Staël.  Chateaubriand có được cái vinh dự là người đầu tiên đưa vào văn học Pháp t́nh cảm tôn giáo, nguồn cảm hứng xuất phát từ những niềm tin Thiên Chúa Giáo.  Le Génie du Christianisme (1802) xác định: 

1.   Tôn giáo có thể cung ứng cho nghệ thuật và văn chương những nguồn cảm hứng phong phú;

2.   Thiên Chúa Giáo là một tôn giáo hoàn toàn nhuốm màu thi ca;

3.   Tín đồ Thiên Chúa Giáo có một tâm hồn khác hẳn  với người ngoại đạo, phát xuất từ một nền giáo dục đạo đức hoàn toàn khác; do đó, đạo lư chủ yếu của người ngoại đạo là sự kiêu hănh, trong khi, đối với tín đồ Thiên Chúa Giáo đạo lư đó là ḷng từ thiện; và như thế Thiên Chúa Giáo đă thay đổi “những nền tảng của đạo đức” và những tương quan của các đam mê con người.

 

Đó là những quan niệm hoàn toàn mới – những tư tưởng vừa nói liên quan đến vai tṛ của tôn giáo và đạo đức Thiên Chúa Giáo trong văn học: những tư tưởng sâu sắc và phong phú mà thi ca thế kỷ mười bảy không biết đến.  V́ thế mà, trong lời phi lộ của cuốn Odes năm 1824, Victor Hugo đă báo hiệu hoài băo nghiêm trọng đó của văn chương cổ điển Pháp.  Từ đó người ta hiểu được những ḍng tư tưởng và cảm xúc mới nào đă ảnh hưởng những tác phẩm đầu tiên của Chateaubriand.  Và sau nầy, vào năm 1828, trong một bài phi lộ, Chateaubriand có thể nói rất đúng:  “Phần nào văn chương vẫn mang những màu sắc của Génie du Christianisme”.

 

Về phần Mme de Staël, bà hoàn toàn đồng ư với Chateaubriand về vai tṛ mà ông gán cho Thiên Chúa Giáo trong văn chương.  Chúng ta đă từng nghe bà kêu gọi trở về chủ nghĩa duy tâm Thiên Chúa Giáo (Spiritualisme Chrétien), và tuyên bố phải xem đó là trọng tâm của lư tưởng, tôn giáo và thi ca của chúng ta.  Cho nên, trong trật tự tư tưởng đó, bà đă góp phần đẩy mạnh văn học theo cùng chiều hướng của Chateaubriand.  Mme de Staël cũng khuyên nên ngược ḍng về thời kỳ Trung Cổ để t́m hiểu Thiên Chúa Giáo nguyên thủy, những huyền thoại mă thượng và những tập tục phong kiến.  Về điểm nầy chúng ta đă thấy có điểm cần bàn thảo, v́ Mme de Staël tỏ ra quá bận tâm về biểu mẫu của trường phái lăng mạn Đức.  Nhưng ngay trong trọng tâm của vấn đề, nghĩa là khuynh hướng vọng Trung Cổ, một lần nữa Mme de Staël lại rất tâm đầu ư hiệp với Chateaubrand.  Thực vậy, đối với tác giả của Le Génie du Christianisme, sự tôn thờ Trung Cổ được gắn liền chặt chẽ với sự tôn kính Thiên Chúa Giáo và những truyền thống tôn giáo lâu đời của Pháp.  Đừng quên rằng chính Chateaubriand là người đầu tiên đă giúp người Pháp hiểu được kiến trúc Trung Cổ và đă diễn đạt   tất cả những biểu hiện niềm tin và thi ca trong những lâu đài theo kiến trúc Gothique.

 

Phần có vẻ thuộc về Mme de Staël chính là sáng kiến tham chiếu văn học ngoại quốc, nghiên cứu chúng và nhờ đó rộng răi vay mượn và trao đổi  tư tưởng. Nhưng đó mới chỉ là sự lặp lại một phong trào đă có từ hậu bán thế kỷ mười tám và bị gián đoạn v́ cuộc chiến của Cách Mạng Pháp và  các cuộc chiến dưới thời Napoléon.  Điều chắc chắn là, sau khi xuất bản cuốn L’Allemagne của Mme de Staël (1813) và cuốn Le Concours de Littérature của Guillaume Schlegel (1814), người Pháp chuyển qua đọc Gœthe và Schiller cũng như Walter Scott và Byron (không quên Shakespeare), và sau nầy là Manzoni và Calderon.

 

T́nh cảm tôn giáo, cảm hứng Thiên Chúa Giáo, vọng Trung Cổ, những vay mượn rộng răi từ văn chương nước ngoài: đó là những yếu tố mới mà Chateaubriand và Mme de Staël đă đem đến cho thi ca Lăng Mạn Pháp.  Nhưng chúng ta chưa có được tất cả những ǵ tạo nên nền tảng của trường phái Lăng Mạn.  C̣n có một yếu tố nữa cần được nêu lên, và chúng ta sẽ nghiên cứu khá gần, v́ yếu tố đó rất quan trọng, rất đặc biệt, và nó nằm trong tất cả văn chương lăng mạn, ngay cả trong kịch nghệ:  đó là cảm thức bi quan (pessimisme).

 

Chúng ta đă đề cập đến sầu muộn (mélancolie),  như hiện tượng luôn luôn pha lẫn với đam mê t́nh yêu, với những ấn tượng khơi dậy trong tâm hồn do ngoại cảnh thiên nhiên, sau cùng pha lẫn với những suy tư về sự ngắn ngủi của cuộc sống và hạnh phúc con người. Sầu muộn có thể nói bắt nguồn từ nỗi suy tư thầm kín về hư vô và về cái chết, xâm nhập vào tất cả cảm xúc của đời sống tinh thần một khi có đủ một  chiều sâu nào đó. Tuy nhiên, sầu muộn không phải là cảm thức bi quan mà chỉ là yếu tố nền tảng; nó có thể đưa đến bi quan nhưng trong bi quan c̣n có một cái ǵ hơn thế nữa.

 

Sầu muộn bắt nguồn từ một động thái tưởng tượng nào đó và một xu thế quen thuộc nào đó của tâm hồn khiến chúng ta thích nh́n vào và đi t́m những khía cạnh u uẩn của sự vật; và như thế, ngay trong những khoảnh khắc hạnh phúc và vui thú, chúng ta cũng thích gợi lên những chuỗi   h́nh ảnh buồn bă có tác dụng phủ lên tâm tư chúng ta một màu ảm đạm và mang lại sự năo nề cho suy tư và t́nh cảm của chúng ta.  Sầu muộn có thể Thỏa hiệp với ư thức về hạnh phúc, có thể dịu dàng, cảm động và êm ái.

 

Cơ sở và lư do tồn tại hay nguyên cớ của cảm thức bi quan chính là ư thức về điều bất hạnh hay điều xấu (conscience du mal).  Cảm thức đó có cái ǵ cay đắng, khó chịu, dằn vặt, đau khổ.  Bi quan làm băng hoại  trái tim và lũng đoạn ư chí; nó không những trở thành một nếp nhăn của tâm hồn mà c̣n là một h́nh thức của cá tính; nó làm nản ư chí hành động.  Trong bi quan có h́nh thức  tư tưởng cố hữu và dứt khoát nầy:  cuộc đời là xấu, điều xấu là không thể cứu văn, và trên đời nầy cũng như bên kia thế giới không có ǵ để hy vọng cả.  Thường đó là nguyên nhân đưa đến tự sát như là hậu quả tối hậu và luận lư của bi quan.

 

 

 

 

 

 

 

Bi Quan Dục Vọng (Pessimisme Passionel)

 

Xuyên suốt loạt bài nầy chúng ta sẽ thấy những h́nh thức khác nhau của bi quan.  Trước hết, chúng ta nghiên cứu điều mà chúng ta có thể gọi là “bi quan lăng mạn hay dục vọng – pessimisme romanesque ou passionel”, một tâm bệnh thực sự, h́nh thức  suy thoái của trí tưởng tượng và của trái tim, mà kết quả thường thấy nhất là một sự mất thăng bằng hoàn toàn của tâm hồn. Căn bệnh nầy mang nhiều tên khác nhau:  người ta gọi nó là bệnh Wertherisme, lấy tên của nhân vật trong tiểu thuyết của Gœthe, hay c̣n gọi là bệnh René (mal de René), hay bệnh Byronisme, lấy tên của nhà thơ Anh, Byron. Alfred de Musset gọi bệnh đó là “bệnh thế kỷ - le mal du siècle”.  Tuy nhiên, từ nầy theo ông cũng bao gồm cả những đặc tính của bi quan triết học và tôn giáo mà chúng ta sẽ bàn đến sau nầy.

 

Hiện tượng tâm lư đó – bi quan dục vọng – khá tế nhị khi nghiên cứu và đ̣i hỏi một phân tách nào đó.  Mầm mống đầu tiên của bi quan dục vọng nằm trong điều mà Chateaubriand gọi là “cơi  mơ hồ của những đam mê – le vague de passions”, tức trạng thái tâm hồn “đến trước sự phát triển của những đam mê lớn, trong khi tất cả những chức năng trẻ, năng động, toàn diện nhưng khép kín, chỉ được tác động  trên chính chúng, không mục đích và không đối tượng…Con người thức tỉnh sau khi chẳng hưởng thụ được ǵ; vẫn c̣n những khát vọng khôn nguôi, và con người không c̣n ảo tưởng ǵ nữa.  Với một con tim tràn đầy, chủ thể lại sống một thế giới trống rổng; và v́ không nắm bắt được ǵ nên con người trở nên thất vọng về mọi thứ.

 

On habite, avec un cæur plein, un monde vide; et, sans avoir usé de rien, on est désabusé de tout.

 

Và Chateaubriand nói thêm: “Nỗi cay đắng mà t́nh trạng đó phủ lên cuộc đời là không thể tưởng tượng được;…nỗi lo âu thầm kín đó, nỗi chua chát đó của những đam mê bị đè nén và khuấy động toàn bộ, tất cả là nguyên nhân của vấn đề tâm lư lớn lao; trí tưởng tượng dâng cao thành những mơ mộng bệnh hoạn, có khả năng đưa đến tự sát”.  Sau khi nhận ra điều xấu trong Le Génie du Christianisme, Chateaubriand tuyên bố trong lời phi lộ của cuốn René rằng ông muốn “tố cáo nó và đấu tranh chống lại nó.”

 

Trong phần phi lộ  đó , ông viết: “Chính J.J. Rousseau là người đầu tiên trong số chúng ta đă đưa lên những mơ mộng rất ư tại hại và tội lỗi đó.  Tự cách ly với mọi người, ch́m đắm trong mơ mộng” – (Rousseau là người mất quân b́nh; sự thù ghét con người của ông chỉ là một h́nh thức của trạng thái bệnh lư; đó là một hội chứng nghi bệnh – hypocondriaque -; và nếu ông sống trong rối loạn và cô đơn, đó chính v́ ông không thể sống với ai được, ông tuyệt đối bất thân thiện.) – “Ông đă làm đám thanh niên tin rằng buông thả cho đời như thế  là tốt đẹp.  Tiểu thuyết Werther được khai triển từ loại thuốc độc đó. ”

 

Đó là một trong những đoản văn ư nghĩa nhất v́ nó đánh dấu cho chúng ta khởi điểm và coi như những giai đoạn đầu tiên của bệnh thế kỷ đó, thứ bệnh, bắt ngưồn từ Rousseau, đă đến với chúng ta, thông qua Werther, René, những nhân vật của Byron, những nhân vật lăng mạn như Hernani, Antony, Chatterion, và cuối cùng là Olympio và Rolla.

 

* Werther của Gœthe 

Cần phải nhấn mạnh trên tác phẩm nầy của tác giả người Đức, thành công rất lớn và ảnh hưởng rất xa.  Khi viết tác phẩm nầy Gœthe mới 25 tuổi (1774). Gần như lập tức được dịch sang tiếng Pháp (1776), tác phẩm nầy khơi động một phong trào ngưỡng mộ   vượt xa phong trào ngưỡng mộ  dành cho Nouvelle Héloïse.  Cũng giống như những tiểu thuyết của Richardson và Rousseau, Werther đă làm rơi bao nhiêu nước mắt nơi những tâm hồn nhạy cảm của thế kỷ mười tám, và ảnh hưởng của nó lớn đến độ người ta có thể nói tiểu thuyết đó đă làm điên loạn cả một thế hệ con người.

 

Mme de Staël đă từng định nghĩa rơ ràng nhân vật của thiểu thuyết Werther khi bà nói rằng đó là bức tranh “không những của những đau khổ v́ t́nh, nhưng c̣n là của những bệnh của tưởng tượng ” trong thế kỷ của chúng ta.  Về phần ảnh hưởng tai hại của cuốn tiểu thuyết đối với giới trẻ, cũng chính Mme de Staël đă nói: “Wether đă gây ra nhiều vụ tự sát hơn cả người đàn bà đẹp nhất thế gian”.  Tuy nhiên, bà thêm rằng, trong khi bà viết, nghĩa là vào khoảng năm 1810, Gœthe chỉ c̣n biểu thị sự coi thường đối với tác phẩm thời trẻ đó; và, trong sự lạc quan quen thuộc của bà đối với người Đức, bà công nhận nơi  ông những quan tâm đạo đức và tôn giáo, những quan tâm sẽ mang đến cho ông vinh dự lớn nếu chúng có thực. Nhưng chúng ta không tạo nên một ảo tường nào về ư nghĩa đạo đức của Gœthe.  Như Alfred de Musset cho chúng ta thấy, hăy nh́n lại ông “trong văn pḥng của ông, chung quanh toàn những bức tranh, những tượng, phong phú, hạnh phúc và trầm lặng, nh́n tác phẩm của ông đến với  chúng ta từ bóng tối với một nụ cười của một người cha đối với con.” Vâng, đúng vậy, một người như thế, với cá tính mà chúng ta đều biết, với sự cao ngạo, trầm tỉnh như thiên thần, siêu thoát một cách ích kỷ và mĩa mai,  chỉ là, chỉ có thể là, hoàn toàn vô tư đối với những hệ quả đạo đức và xă hội trong những tác phẩm của ḿnh. Nếu bảo rằng Werther đă khuấy động đầu óc bao nhiêu giới trẻ, đă mang lại cho họ  những tư tưởng không lành mạnh và khuyến khích những hành động thất vọng, những điều đó không quan trọng đối với Gœthe.  Ông không chấp nhận người ta có thể quy trách nhiệm những chuyện linh tinh đó cho một nhà văn thiên tài.

 

Trên hết ông chú tâm biến tiểu thuyết của ḿnh thành một tác phẩm hoàn toàn cá biệt, một thú nhận thành thật.  Như ông từng nói với người bạn tri kỷ của ông là Eckermann, ông đă lấy nó trong trái tim của ông. – “Tôi tự biết những rối loạn trong thời tôi c̣n trẻ… Những ǵ khiến tôi viết, những ǵ đă đặt tôi trong t́nh trạng tinh thần đó, t́nh trạng từ đó xuất phát cuốn Werther, đó là một số liên hệ, một số dằn vặt hoàn toàn cá nhân… Tôi đă sống, tôi đă yêu và tôi đă đau khổ nhiều.  Tất cả chỉ có thế.”

 

Đối với những khẳng định trên cũng cần có một vài dè dặt.  Nội dung chủ yếu của Werther chắc chắn là một hoàn cảnh thực, một giai đoạn của tuổi trẻ của Gœthe.  Đó là những dữ kiện được biết rơ ràng.  Vào tuổi 23, Gœthe sống tại Wetzlar , Hesse (1772); taị đó, ông quen biết với ông Buff và cô con gái trẻ của ông là Charlotte, vị hôn thê của Kestner, một trong những người bạn của ông. Được đón nhận với sự tin tưởng của gia đ́nh Buff, ông sống ba tháng tuyệt vời (tháng 6- tháng 9) trong sự thân mật của Kestner và cô gái trẻ.  Nhưng,  v́ nhận thấy mối nguy hiểm của sự thân mật mà ông linh cảm càng lúc càng dịu dàng, ông đă khôn ngoan quyết định rời khỏi Wetzlar.  Thư từ vẫn qua lại giữa ông và các bạn bè.  Năm sau, Kestner lặng lẽ cưới Charlotte.  Về sau Gœthe đến thăm họ lại và duy tŕ với họ những liên hệ thân mật.

 

Sự thật là như thế: một quan hệ hoà hợp khai triển theo lối tiểu tư sản.  Tương ứng với quan hệ đó là phần đầu của cuốn tiểu thuyết.  Nhưng cái ǵ tương ứng với phần thứ nh́ được khai triển một cách rất bi đát?  Sự việc theo như đă xảy ra, những thư từ trao đổi qua lại giữa Gœthe và bạn bè - yếu tố mang đến cho chúng ta những tài liệu tích cực liên quan đến vấn đề nầy – không chứng minh được rằng cuộc phiêu lưu nhỏ bé đó của thời trẻ đối với Gœthe là đam mê hay đau khổ cho mấy.  Thi sỷ cảm thấy con tim ḿnh  hơi xúc động; ông thận trọng không chờ đợi sự quyến rũ trở nên không thể phá vỡ; ông ra đi đúng lúc và hành động như một người quí phái.  Có một khác biệt lớn giữa lối hành xử lư trí và kiềm chế đó với cuốn tiểu thuyết về dục vọng, đau khổ, thất vọng mà ông viết sau đó, và trong đó trí tưởng tượng của ông được tự do tung hoành.

 

Điều đáng nói là chính trí tưởng tượng của nhà văn nơi ông đă chốp lấy một biến cố xảy ra tại Wetzlar trong cùng thời kỳ: một người Jérusalem trẻ, có học vấn cao, lăng mạn, si mê một người đàn bà có chồng với một đam mê đau khổ, đă tự sát bằng một khẩu súng lục vào cuối tháng mười 1772.  Chính Kestner đă cho người Jérusalem mượn khẩu súng. Chính Ketsner đă cung cấp cho Gœthe những chi tiết về cái chết đó; và Gœthe, tự đồng hoá ḿnh với người Jérusalem xấu số, đem ghép câu chuyện bi đát đó vào câu chuyện của chính ḿnh, và kết hợp cả hai lại với nhau thành một.  Nhưng đối với ông, những đau khổ mà ông mô tả chỉ  xảy ra “trong phạm vi tưởng tượng”.  “Nếu có đau khổ th́ ông cũng không nói ra trong thư từ thời đó gởi cho Ketsner và Charlotte…  Trong những ǵ ông viết cho họ vào mùa đông  năm 1772-1773, trước đám cưới, ông tỏ ra vui vẻ, sung sướng hay ít ra là tự do và dằn vặt bởi nhu cầu yêu đương và bởi đam mê mơ hồ thay v́ một thương đau nào đặc biệt.” (Saint-Beuve, Phi lộ cho cuốn Werther).  Người ta hiểu rơ rằng vợ chồng Kestner đă vô cùng sửng sốt về cuốn tiểu thuyết khi nó xuất hiện vào tháng chín 1774.  Đừng quên hoàn cảnh rất ư nghĩa nầy:  cuốn tiểu thuyết không đưa đến sự đoạn tuyệt giữa Gœthe và những người bạn Ketsner của ông; nhưng nó đă khiến mối liên hệ trở nên lạnh nhạt trong một thời gian.

 

Do đó, Werther không phải là “một thú nhận” cá nhân và thành thật.  Trí tưởng tượng của thi sỷ đă thêu dệt chủ đề ban đầu và đă phóng đại và khuyếch tán sự thật một cách đáng kể.  Có ǵ phải ngạc nhiên?  Gœthe, như chúng ta biết, thuộc số những nguời (và nhiều người là thuộc giới thi sỷ và nghệ sĩ ) xây dựng tác phẩm văn chương của ḿnh bằng những biến cố trong đời sống của ḿnh và những cảm xúc của trái tim ḿnh, và ngay cả t́m kiếm những phiêu lưu t́nh ái để tự cung ứng  thú vui với những cảm xúc mới, để thực hiện những t́m hiểu khác nhau trên trái tim đàn bà và t́m ra những động lực cảm hứng thơ.  Đối với họ, một người đàn bà chỉ đơn thuần là một đối tượng quan sát; xúc cảm chỉ là một chất liệu cho thơ.   Những thi sỷ thuộc h́nh thức  nầy, trong mọi nơi và mọi hoàn cảnh, đều chỉ quan tâm đến nghề văn và, có thể nói, có trong tưởng tượng một hệ đăng cai cảm xúc (enregistreur à sensations).

 

Nhưng nếu Gœthe sai lầm – ít nhiều có ư thức - về căn bản của cuốn sách th́ ông đă nêu rơ ư nghĩa tổng quát về vần đề nầy;  ông vẫn nói với Eckermann, “Werther là một giai đoạn cuộc sống của mỗi cá nhân.  Tất cả chúng ta đều sinh ra với cảm quan về tự do thiên nhiên; và, khi tự thấy ḿnh  trong một thế giới già cỗi, chúng ta phải tập khép ḿnh trong những chiếc hộp chật hẹp đó.  Hạnh phúc bị giam hăm, hoạt động, những hoài băo  không nguôi của thời trẻ, đó là… những khuyết điểm… của mỗi con người; và quả là điều bất hạnh nếu người nào trong đời không có một giây phút  trong đó dường như cuốn tiểu thuyết Werther chỉ được viết ra cho một ḿnh họ thôi.”

 

“Hạnh phúc bị giam hăm”, “những hoài băo  khôn nguôi của thời trẻ”, nỗi bực dọc đối trước những “chiếc hộp chật hẹp” phát xuất từ một xă hội già nua, đó chính là niềm đau ở lứa tuổi hai mươi của tất cả những người trẻ tuổi với sức tưởng tượng mănh liệt và đam mê cuồng vọng, dù là thời đại của Werther, René, Rolla, hay thời đại nào khác cận kề với chúng ta.  Đó chính là yếu tố trước kia đă giúp tiểu thuyết của Gœthe thành công.  Những “đau khổ” của Werther đáp ứng với bao nhiêu đau khổ thực sự và cảm nhận một cách tàn nhẫn.  Và những đau khổ đó vẫn c̣n âm vang  trong những trái tim trẻ ngày nay.  Những đau khổ của trái tim kia là nguồn gốc của cảm thức bi quan dục vọng.  Những t́nh tiết của cuốn truyện Werther báo trước cho chúng ta biết ở mức độ nào một thanh niên với tâm hồn lạc lơng sẽ thất vọng về tương lai v́ đinh ninh rằng hạnh phúc t́nh yêu không bao giờ có được.

 

* Chateaubriand và tiểu thuyết René

 

René tŕnh bày với chúng ta một bức tranh se thắt của nỗi đau tâm hồn mà Chateaubriand cho rằng phát xuất từ “cơi  mơ hồ của những đam mê”.  Chúng ta đă đề cập đến ư nghĩa của nhóm từ nầy; nhưng đó không đơn thuần là một công thức trừu tượng, bắt nguồn từ những suy tư triết học về con người, về trái tim con người, về sản sinh và tiến hóa của đam mê, về sự phức tạp của những yếu tố đam mê tạo nên t́nh yêu.  Chateaubriand không phải là một lư thuyết gia, nhưng là một họa sỷ về bản chất con người và thực thể tâm lư theo như ông đă quan sát. Bức tranh của ông về những rối loạn của tâm hồn dùng bối cảnh thực là những ấn tượng dai dẳng mà ông c̣n giữ lại từ một số biến cố trong thuở thiếu thời.  “Cơi  mơ hồ của những đam mê” ấy, ông đă kinh qua; ông đă biết những mộng mơ không lành mạnh đó, nỗi âu lo ấy, cảm thức yếm thế ấy mà ông mô tả rất ư sống động trong René.  Ông đă cảm nhận được những hệ quả nghiêm trọng của tâm bệnh đó; ông không chịu khuất phục.  Tác phẩm Mémoires d’Outre-Tombe cung cấp cho chúng ta những thông tin chỉ hướng rất hữu ích.

 

Trong phần đầu của cuốn  Mémoires, Chateaubriand  kể lại rằng sau khi từ chối chờ đợi nhận văn bằng sĩ quan tại Brest, một điều không bao giờ đến, ông đă quyết định trở về nhà tại lâu đài Combourg.  Ông sống ở đó hai năm, 1784 và 1785; bấy giờ ông đă 16 tuổi sắp lên 17.  Chateaubriand gọi thời kỳ nầy trong đời ông là “sự chuyển tiếp từ đứa trẻ lên người lớn”: tuổi chuyển tiếp, đúng thế, trong đó tuổi thành niên sôi sục trong huyết mạch của chàng thanh niên, lúc những rối loạn sinh lư sản sinh và tác động lên đời sống tâm lư , lúc ông cảm thấy những âu lo  mơ hồ, những hoài băo  thầm kín về một cái ǵ đó, về một cái mà ông chưa xác định được.  Và tất cả nhũng hiện tượng đó càng trở nên quyết liệt hơn  khi ông có một trí tưởng tượng mănh liệt, một cảm tính cuồng nhiệt cũng như một đời sống hoàn toàn thuần khiết và trong trắng.

 

Trong Mémoires có khoảng hai mươi trang với lối hành văn tuyệt bút, nhuốm màu đau khổ , trong đó ông kể cho chúng ta nghe nhũng mơ mộng, buồn bă, và cao hứng, những cuộc đi dạo đơn độc, những chuyến đi lêu lổng của ông qua miền đất rải rác những sỏi đá khô cằn.  Trong cơn thác loạn của tưởng tượng và của con tim, ông đă bỏ rơi người đồng hành trung thành của những năm xưa, kẻ tri âm của những trầm tư ban đầu, nguồn cảm hứng của những ḍng thơ đầu tiên – Lucille, người em gái dịu hiền của ông.  Ông đă ngưng viết, ngưng chạy với cô qua những cánh đồng và những cánh rừng.  Ông lang thang, chím đắm trong mộng mơ.

 

Nhưng không ai có thể b́nh yên để thần kinh và tưởng tượng tự do tung hoành.  Đó là một tṛ chơi nguy hiểm và dứt khoát kết thúc bằng trạng thái mất quân b́nh về tinh thần và tâm lư.   Chàng kỵ mă trể tuổi toan tự tử với một súng săn mà anh ta nạp với ba viên đạn, nhưng sau nhiều lần toan bóp c̣ súng vẫn không nổ.  Sau đó anh ta lâm bệnh nặng, và bác sỹ cho biết cần phải kéo anh ta ra khỏi lối sống hiện thời.  Chính từ chuỗi biến cố đó mà ông gia nhập quân đội.

 

Chúng ta hăy quay lại cuốn tiểu thuyết René. Câu chuyện trong đó René kể lại cuộc đời ḿnh ở nhà ông lăo Chactas và P. Souël cho thấy những tương đồng đáng chú ư với cuốn Mémoires, ngay cả trong những t́nh tiết của một số hoàn cảnh.  Nhưng đương nhiên ở đây chúng ta không bận tâm đề cập đến giai thoại loạn luân của cuốn tiểu thuyết, một giai thoại không có một căn cứ trong đời sống thực. Điểm chính yếu duy nhất cần nêu lên là sư tương đồng khít khao giữa René trong truyện và René trong Mémoires liên quan đến đặc thái và tầm mức tưởng tượng: cả hai đều có con tim nhiễu độngv́ đam mê mănh liệt, mặc dù hăo huyền, không đối tượng thực sự và tích cực; cả hai đều say mê đi t́m sự cô đơn, duy tŕ đam mê của ḿnh bằng những ước mộng mơ hồ và khích động con tim và trí tưởng tượng trong vùng trống không.

 

Xin hăy đọc đoản văn sau đây trong tác phẩm Les Pages Choisies de Chateaubriand:

Nỗi cô đơn tuyệt đối cùng ngoại cảnh thiên nhiên khiến tôi ch́m đắm ngay trong một trạng thái gần như không thể diễn tả  được.. Tâm trạng yếm thế mà tôi cảm nhận từ thời thơ ấu trở lại trong tôi với một sức mạnh mới…, và tôi chỉ c̣n cảm nhận sự hiện hữu của ḿnh qua một t́nh cảm chán chường sâu thẳm.

 

Ce dégoût de la vie que j’avais ressenti dès mon enfance revenait avec une force nouvelle…, et je ne m’apercevais plus de mon exisitence que  par un profond sentiment d’ennui.

 

Chán chường, yếm thế, đó là hậu quả đưa đến từ xu hướng cô đơn thái quá. Sự cô đơn là một nguy cơ lớn đối với những tâm hồn đam mê và ngây ngất.  Hỡi René!  Nếu người sợ những rối loạn của con tim th́ hăy coi chừng sự cô đơn ; những đam mê lớn là những đam mê cô đơn; và đưa chúng vào sa mạc tức là đưa chúng về với cội nguồn của chúng.   

 

Dù đó là một đam mê có đối tượng thực như trong Atala, hay một đam mê mơ hồ, không thực và hư ảo như trong René hay Mémoires, cô đơn luôn luôn là không lành mạnh; nó khích động trí tưởng tượng và, một khi tưởng tượng bi khích động thái quá, đam mê cũng thái quá và trào dâng.  Những sức mạnh tinh thần bị kích thích và những rối loạn tinh thần  có thể đi đến t́nh trạng mất quân b́nh về tâm lư - biểu hiện cuối cùng của t́nh trạng nầy là tự sát.

 

Một tâm trạng như thế h́nh như phù hợp với nhận định của P. Souël nói với René:  Ngươi làm ǵ một ḿnh trong rừng sâu, nơi ngươi tiêu pha những ngày tháng của ḿnh, quên hết bao nhiêu nhiệm vụ?… Cô đơn là điều xấu đối với những ai không sống với Thượng Đế…Bất kỳ ai  đă nhận được sức mạnh đều phải cống hiến chúng để phục vụ đồng loại, v.v.

 

Đó là phương thuốc chữa trị điều xấu, đó là nhiệm vụ: năng động, sử dụng hành động của ḿnh để phục vụ Thượng Đế hay tha nhân, cuối cùng biến ḿnh thành người hữu dụng, đó thực sự là nhiệm vụ thiêng liêng của một người.  Đó là điều mà Chateaubriand hiểu rất rơ; và ông chữa trị được những ưu phiền, khích động và đi vào cuộc sống tích cực.

 

Thiết nghĩ chúng ta đă nói khá đủ để cho thấy h́nh thức đầu tiên của bi quan mệnh danh là bi quan lăng mạn hay đam mê.  Đặc tính của những tâm hồn đam mê, tưởng tượng dồi dào, đặt lư tưởng của họ trong t́nh yêu và v́ không t́m được hạnh phúc ḿnh mơ ước nên, từ ước mơ sụp đổ, đi đến một thất vọng không cứu văn nỗi.  Bấy giờ người ta thấy họ buông xuôi theo một chán nản  thăm thẳm và u ám, và nếu ư chí không dốc toàn lực để phản ứng lại th́ có thể đưa đến sự tiêu ma toàn bộ của chủ thể tâm lư và kéo theo những giải pháp thê thảm.  Tư tưởng yếm thế, phiền năo (ennui), đó ít nhất là kết quả của những mộng ước mơ hồ và không lành mạnh, trong đó người ta phó mặc cho tưởng tượng đi rông t́m những những bóng ma t́nh yêu không thể nắm bắt được. Và phiền năo là ǵ?  Đó chỉ là một h́nh thức của hoài băo  không Thỏa mản được. René tiêu biểu cho loại tâm hồn hoài băo  đó, loại tâm hồn mà M. de Vogüé nhận thấy nơi Chateaubriand ; và chính Chateaubriand tỏ ra là hiện thân cho phiền năo - phiền năo đă kéo lê cuộc sống của ông.

 

Chateaubriand đă viết ra René để chiến đấu và tiêu diệt làn sóng bi quan đó, làn sóng mà chính ông nhận thấy những thảm họa của nó.  Nhưng bức tranh ông vẽ  lại mang một thực thể quá sinh động, quá thu hút.  Điều xấu mà ông cố gắng tiêu diệt th́ quá bao la, quá sâu thẳm giữa những thanh thiếu niên thời đó.  Ông đă đọc Werther; xu hướng lăng mạn theo lối Werther đă gieo rắc những tàn phá, những tàn phá chỉ có làm tăng cường tiểu thuyết René.  Và đó chính là yếu tố phần lớn giải thích ảnh hưởng của các tiểu thuyết.  Có thể nói những đam mê mà người ta minh họa ở đây t́m được âm vang trong các tâm hồn.  Điều đó muốn nói rằng những ai từng đọc,từng có một tương đồng nào đó về bản chất, cảm tính, tưởng tượng với những nhân vật mà nhà văn dàn dựng, đều có những nhu cầu tâm lư y như những nhân vật, và tất cả đều có khuynh hướng cảm nhận những cảm xúc, đam mê của họ, rập theo những tư tưởng, suy luận, quan điểm, cuối cùng tự đồng hóa với họ.  Như thế, địa bàn được sửa soạn sẵn trước và thuận lợi cho tác động truyền cảm của tiểu thuyết.  Người ta có thể nói tiểu thuyết trên hết tác động bằng thông cảm.  Đó chính là yếu tố thành công của René cũng như của tất cả những tiểu thuyết nổi tiếng.  Và sự thành công đó quay ngược lại với chính tác giả.  Chateaubriand đă nhận thấy điều đó với một ít hối tiếc:  Nếu chưa viết René th́ tôi sẽ không viết nó nữa; nếu có thể hủy diệt nó được th́ tôi sẽ làm thế.

Vô số thi ca và tiểu thuyết theo h́nh thức  René đă xuất hiện thời đó; nhưng người ta chỉ c̣n nghe những câu than văn rời rạc; chỉ c̣n nghe gió băo, chỉ c̣n nghe những âm vang mơ hồ lùa theo giông tố trong màn đêm.  Cảm thức bi quan của René quả thực là nguồn gốc của những thất vọng lăng mạn, với sự phụ họa của than van và nước mắt.

 

 

 

 

Lương Tấn Lực