ODE TO PSYCHE
- John Keats (1795-1821)
PHIÊN KHÚC TÌNH YÊU

Năm 1819 được các học giả xem là năm "được mùa" (fertile year) hay "năm sống" (living year) của John Keats. Chỉ trong vòng vài tháng, ông đã viết năm tụng ca (Ode) khiến ông nổi tiếng. Một số người cho rằng "Ode to Psyche" là tụng ca thứ nhì, sau "Ode on Indolence;" trong khi những người khác thì nói "Ode to Psyche" là bài thứ ba, sau cả "Ode on Indolence;""Ode on Melancholy," nhưng có lẽ "Ode to Psyche" có trước "Ode to a Nightingale;""Ode to a Grecian Urn."
Trong tôn giáo Hy Lạp, "psyche" có nghĩa là linh hồn (soul). Trong thần thoại của họ, Psyche là một công chúa diễm kiều mà Nữ Thần Tình Yêu Aphrodite ghen tức vì sắc đẹp. Thần nữ nầy đưa người con trai Eros (tức Cupid) đến với Psyche, ra lệnh Eros phải làm cho nàng yêu một người xấu xí nhất trên trái đất. Nhưng Eros không cưỡng lại được dung nhan tuyệt sắc của người trần nầy. Thay vì thế, chàng đem lòng yêu nàng và hai người trở thành đôi tình nhân. Psyche kết hôn với Cupid () mà không biết Cupid là ai, nhưng đã được cảnh cáo không bao giờ được nhìn vào mặt của Cupid khi ngủ với ông. Psyche không vâng lời và, như một hình phạt, Aphrodite (mẹ của Cupid) bắt Psyche phải làm nhiều việc tàn nhẫn và khó khăn. Cupid khiếu nại trường hợp của mình với các thần khác; và những thần nầy bảo Aphrodite phải nhượng bộ và cho phép Psyche trở thành người bất tử. Cupid và Psyche được đoàn tụ trở lại.
Với một cất trúc lỏng lẻo và linh hoạt cùng với hình ảnh sung mãn đầy cảm quan, bài "Ode to Psyche" biến đổi phong cách của nhân vật trong thơ của Keats từ say mê trạng thái vật vờ phờ phạt sang say mê tưởng tượng sáng tạo – cho dù sự tưởng tượng đó không được thể hiện vào nghệ thuật.
Nhân vật của Keats bắt đầu bài thơ với vài dòng nói với Nữ Thần Psyche, xin nàng hãy lắng nghe và xin nàng thứ lỗi nếu phải nghe những bí mật về nàng. Ông cho biết khi lang thang trong rừng ông bỗng thấy hai người như thiên thần nằm cạnh nhau trên cỏ, với hoa lá chung quanh. Nhân vật nhận ra người con trai có cánh (tức Cupid) nhưng không biết thiếu nữ là ai: đó chính là Psyche. Trong những đoản thơ còn lại, bài thơ lại nói về Psyche, mô tả nàng như nữ thần trẻ nhất và khả ái nhất trong số những vị thần của hệ thần Olympus. Mặc dù Psyche không được tôn thờ như các thần khác với đền thờ hay những lễ nghi liên quan, nhân vật vẫn tôn sùng nàng và sẵn sàng cung ứng mọi thứ mà Psyche đáng được có. Nhân vật sẽ tạo điều kiện cho người yêu của Psyche có thể đến thăm nàng vào ban đêm. - Đông Yên

Ode to Psyche
- John Keats
O Goddess! hear these tuneless numbers, wrung
By sweet enforcement and remembrance dear,
And pardon that thy secrets should be sung
Even unto thine own soft-conched ear:
Surely I dreamt to-day, or did I see
The winged Psyche with awaken’d eyes?
I wander’d in a forest thoughtlessly,
And, on the sudden, fainting with surprise,
Saw two fair creatures, couched side by side
In deepest grass, beneath the whisp’ring roof
Of leaves and trembled blossoms, where there ran
A brooklet, scarce espied:
‘Mid hush’d cool-rooted flowers, fragrant-eyed,
Blue, silver-white, and budded Tyrian,
They lay calm-breathing on the bedded grass;
Their arms embraced, and their pinions too;
Their lips touch’d not, but had not bade adieu,
As if disjoined by soft-handed slumber,
And ready still past kisses to outnumber
At tender eye-dawn of aurorean love:
The winged boy I knew;
But who wast thou, O happy, happy dove?
His Psyche true!
O latest born and loveliest vision far
Of all Olympus’ faded hierarchy!
Fairer than Phoebe’s sapphire-region’d star,
Or Vesper, amorous glow-worm of the sky;
Fairer than these, though temple thou hast none,
Nor altar heap’d with flowers;
Nor virgin-choir to make delicious moan
Upon the midnight hours;
No voice, no lute, no pipe, no incense sweet
From chain-swung censer teeming;
No shrine, no globe, no oracle, no heat
Of pale-mouthed prophet dreaming.
O brightest! though too late for antique vows,
Too, too late for the fond believing lyre,
When holy were the haunted forest boughs,
Holy the air, the water, and the fire;
Yet even in these days so far retir’d
From happy pieties, thy lucent fans,
Fluttering among the faint Olympians,
I see, and sing, by my own eyes inspired.
So let me be thy choir, and make a moan
Upon the midnight hours;
Thy voice, thy lute, thy pipe, thy incense sweet
From swinged censer teeming;
Thy shrine, thy grove, thy oracle, thy heat
Of pale-mouth’d prophet dreaming.
Yes, I will be thy priest, and build a fane
In some untrodden region of my mind,
Where branched thoughts, new grown with pleasant pain,
Instead of pines shall murmur in the wind:
Far, far around shall those dark-cluster’d trees
Fledge the wild-ridged mountains steep by steep;
And there by zephyrs, streams, and birds, and bees,
The moss-lain Dryads shall be lull’d to sleep;
And in the midst of this wide quietness
A rosy sanctuary will I dress
With the wreath’d trellis of a working brain,
With buds, and bells, and stars without a name,
With buds, and bells, and stars without a name,
With all the gardener Fancy e’er could feign,
Who breeding flowers, will never breed the same:
And there shall be for thee all soft delight
That shadowy thought can win,
A bright torch, and a casement ope at night,
To let the warm Love in!
Phiên Khúc Tình Yêu
- Đông Yên
Hỡi Thần Nữ! hãy nghe thơ ta viết
Thơ nhọc nhằn và hồi tưởng thiết tha,
Xin lỗi nếu ta đem niềm bí ẩn
Rót vào tai ngà ngọc của chính người,
Ta nằm mộng hôm nay hay đã thấy
Thần Tình Yêu có cánh, mắt như gương?
Khi tản bộ trong rừng vô tư lự,
Ta bỗng nhiên cảm thấy lịm cả người,
Nhìn hai bóng như tiên nằm kế cận
Giữa cỏ cao dưới mái lá thì thầm
Hoa run rẩy, và dường như đang chảy
Vẳng đâu đây tiếng con suối rì rào:
Giữa khóm lá, hoa tươi và hương ngát
Nụ đỏ tươi, hoa xanh, trắng đủ màu,
Họ nằm thở im lìm trên thảm có;
Tay ôm nhau và đôi cánh thiên thần;
Môi không chạm nhưng họ chưa từ biệt,
Như cơ hồ vì một giấc ngũ quên,
Nhưng họ vẫn sẵn sàng hôn nhau nữa
Mắt long lanh đắm đuối của tình hồng:
Ta nhận biết chàng trai trong đôi cánh;
Nhưng còn nàng, diễm phúc thế chim câu?
Thì ra thế, là Psyche của gã!

Trẻ nhất nàng, khả ái nhất cũng nàng
Trong tất cả hệ thần Olympus
Tuyệt diễm hơn cả Phoebe Thần Trăng,
Sáng hơn cả Thần Sao Hôm đêm tối;
Hơn rất xa dù ngươi chẳng có đền,
Không ai dựng bàn thờ cùng hoa quả;
Không thánh ca với những gái đồng trinh
Trong khuya vắng trang nghiêm và tỉnh mịch;
Không đờn ca sáo thổi chẳng trầm nhang
Nghi ngút khói trong lư nhang rực cháy;
Không nhà mồ, không sấm, lạy, ba hoa
Từ cửa miệng đám tiên tri mơ mộng.

Lung linh nhất! dù trễ lời nguyện cổ,
Trễ quá rồi không kịp tiếng đàn lia,
Cành quỷ ám được xem như cành thánh,
Nước, khí trời, và lửa cũng linh thiêng;
Lòng mộ đạo thôi như thời Olympus
Cánh thiên thần ngươi vẫn vẩy ung dung,
Ta nhìn, hát, đôi mắt đầy cảm hứng.
Để ta làm hợp xướng soạn lời ca
Trong khuya vắng trang nghiêm và tỉnh mịch;
Ta đờn ca sáo thổi đốt trầm nhang
Nghi ngút khói trong lư nhang rực cháy;
Dựng nhà mồ, viết sấm, lạy, ba hoa
Từ cửa miệng đám tiên tri mơ mộng.

Ta sẽ dựng ngôi đền, làm giáo sỹ
Trong một vùng hoang dã của hồn ta,
Nơi tư tưởng từ niềm đau êm ái
Thay thông reo cùng với gió rì rào:
Xa hơn nữa những rừng cây u ám
Sẽ phủ lên những sườn núi chập chùng;
Nơi gió nhẹ, chim, ong, và suối
Ru Thần Rừng vào giấc ngủ rêu phong;
Rồi giữa chốn mênh mông và tỉnh mịch
Nơi bàn thiêng ta sẽ đặt vòng hoa
Kết từ giậu hoa trồng trong cân não,
Với nụ, tràng, và tinh tú không tên,
Tất cả thứ người làm vườn khó tưởng,
Gầy giống hoa, giống kia khác giống nầy:
Và ở đó là bao nhiêu lạc thú
Mà trầm tư bóng tối sẽ tạo nên,
Một đuốc sáng trong đêm, khung cửa mở
Để đợi chàng phò mã đến cùng ngươi!