ODE ON MELANCHOLY
(NIỆM KHÚC SẦU)
- John Keats (1795-1821)


Khi giới văn học nói về các nhà thơ trong Phong Trào Lãng Mạng Anh, họ thường bắt đầu với Lục Đại (Sáu nhà thơ lớn): William Wordsworth, Samuel Taylor Coleridge, William Blake, Lord Byron, Percy Bysshe Shelley, và John Keats. Byron, Shelley và Keats thuộc thế hệ thứ nhì của phong trào nầy và khởi đi từ điểm đến của ba nhà thơ của thế hệ trước. Cả sáu nhà thơ đều muốn đoạn tuyệt với những quy ước và truyền thống thi ca trước đó và nổi loạn với những thể loại thơ khách sáo phổ biến trong thế kỷ 18. Phong Trào Lãng Mạn nghĩ rằng thơ không nên bị gò bó về cấu trúc và hình thức và nên được xử dụng để diễn đạt tình cảm và những gì mang tính nhân bản và đời thường. John Keats đặc biệt hữu hiệu trong chiều hướng nầy – mặc dù ông thường viết theo những hình thức cổ truyền (như Ode và Sonnet). Thơ ông diễn đạt những khát vọng và tình cảm sâu kín, chứ không liên quan đến những biến cố lịch sử hay giai cấp thượng lưu quý tộc của xã hội Anh.
John Keats là người trẻ nhất trong số sáu nhà thơ nói trên, nhưng ông là người qua đời đầu tiên: ông chết vì bệnh lao vào năm 1821, lúc mới 25 tuổi. Ông bị lây bệnh nầy do chăm sóc một người em trai là Tom bị bệnh lao và qua đời trước đó vài năm. Khi khám phá mình cũng bị lao, tinh thần ông sụp đổ và cảm thấy như bị đọa đày trong đời sống và trong thi ca. Keats cảm thấy suy trầm vô tận và muốn người đời hãy đọc dòng chữ nầy trên mộ bia của ông, "Here lies one whose name was writ in water" (Nơi an nghĩ của một linh hồn mà tên tuổi được viết trong nước.) Có thể ông nghĩ rằng thơ của ông rồi sẽ bị người đời quên đi. Tiếc rằng ông không sống để biết một điều là hiện ông được tưởng nhớ như một trong những nhà thơ tầm vóc nhất trong lịch sự văn học Anh.
"Ode on Melancholy" là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của John Keats, diễn đạt nỗi u uẩn vừa cay đắng vừa ngọt ngào trong tâm trạng tuyệt vọng và ruồng bỏ. - Đông Yên

Ode on Melancholy
- John Keats
No, no, go not to Lethe, neither twist
Wolf's-bane, tight-rooted, for its poisonous wine;
Nor suffer thy pale forehead to be kiss'd
By nightshade, ruby grape of Proserpine;
Make not your rosary of yew-berries,
Nor let the beetle, nor the death-moth be
Your mournful Psyche, nor the downy owl
A partner in your sorrow's mysteries;

And drown the wakeful anguish of the soul.
But when the melancholy fit shall fall
Sudden from heaven like a weeping cloud,
That fosters the droop-headed flowers all,
And hides the green hill in an April shroud;
Then glut thy sorrow on a morning rose,
Or on the rainbow of the salt sand-wave,
Or on the wealth of globed peonies;
Or if thy mistress some rich anger shows,
Emprison her soft hand, and let her rave,
And feed deep, deep upon her peerless eyes.

She dwells with Beauty—Beauty that must die;
And Joy, whose hand is ever at his lips
Bidding adieu; and aching Pleasure nigh,
Turning to poison while the bee-mouth sips:
Ay, in the very temple of Delight
Veil'd Melancholy has her sovran shrine,
Though seen of none save him whose strenuous tongue
Can burst Joy's grape against his palate fine;
His soul shalt taste the sadness of her might,
And be among her cloudy trophies hung.

Cước chú:
* Proserpine: Trong thần thoại Hy Lạp, Proserpine là con gái của Nữ Thần Demeter, tức thần phì nhiêu và trồng trọt. Khi Thần Âm Phủ Hades bắt cóc Proserpine đến miền đất chết để làm vợ, Demeter rất tuyệt vọng nên tất cả cây cối trên mặt đất đều chết hết. Điều nầy không tốt chó trái đất nên những thần khác can thiệp và đưa ra một thỏa hiệp: Proserpine sẽ ở với Hades dưới âm phủ sáu tháng mỗi năm, và trở về với mẹ trên mặt đất sáu tháng. Khi Proserpine ở dưới âm phủ, mẹ nàng buồn rầu nên mới có mùa đông; và khi nàng trở về thì mùa xuân cũng trở lại.
** Psyche: Trong thần thoại Hy Lạp, Psyche là người phàm và là người yêu của Cupid, con trai của Thần Aphrodite, Nữ Thần Tình Yêu,
Niệm Khúc Sầu
- Đông Yên
Không, không nhé, không Sông Mê, rượu độc
Từ cỏ cây thay trấn thống, an thần;
Để độc dược xanh xao trên vầng trán
Hay nỗi sầu Công Chúa Proserpine*;
Dùng trái độc kết thành dây chuỗi ngọc,
Để bọ hung dế dũi biến Psyche**
Thành sầu muộn, cũng đừng cho cú vọ
Len lỏi vào bí ẩn của niềm đau;
Vì bóng tối sẽ đưa vào giấc ngủ,
Nhận chìm đi trăn trở của linh hồn.

Nhưng sầu muộn khi bất ngờ rơi xuống
Như từ trời tiếng khóc của mây đen,
Rồi phủ xuống hoa gục đầu rũ cánh;
Cả đồi xanh là vải liệm Tháng Tư;
Sầu sẽ dịu với hoa hồng buổi sáng,
Với cầu vồng trên sóng cát mênh mông,
Cùng muôn sắc mẫu đơn tròn xoe cánh;
Nếu nàng buồn hay hờn giận không vui,
Hãy nắm lấy tay nàng, nghe kể lể,
Hãy đắm say trong đôi mắt ảo huyền.

Nàng Hương Sắc – Sắc Hương ròi sẽ chết;
Và Niềm Vui, tay chẳng kịp lên môi
Chào từ biệt; và niềm đau Hoan Lạc,
Thành độc cần khi ong nhấp vào môi,
Và trong chính cái ngôi đền Lạc Thú
Quan tài thiên đã che khuất Ưu Phiền,
Không ai thấy trừ kẻ nào tinh lưỡi
Nếm Niềm Vui trong hương vị mùi nho;
Linh hồn họ sẽ nếm mùi sầu muộn,
Trôi vật vờ như trần thiết u minh.
Psyche kết hôn với Cupid mà không biết Cupid là ai, nhưng đã được cảnh cáo không bao giờ được nhìn vào mặt của Cupid khi ngủ với ông.Psyche không vâng lời và, như một hình phạt, Aphrodite (mẹ của Cupid) bắt Psyche phải làm nhiều việc tàn nhẫn và khó khăn. Cupid khiếu nại trường hợp của mình với các thần khác; và những thần nầy bảo Aphrodite phải nhượng bộ và cho phép Psyche trở thành người bất tử. Cupid và Psyche được đoàn tụ trở lại.