ODE ON INDOLENCE
(NHƯỢC KHÚC)
- John Keats (1795-1821)


Nếu tính theo niên đại thì bài thơ "Ode on Indolence" là bài tụng ca (ode) thứ nhì trong số năm bài. Bài thơ nầy được viết vào năm 1819 sau bài "Ode on Melancholy" và một vài tháng tước bài "To Autumn." Tuy nhiên, khi những bài tụng ca được sắp xếp lại theo một tập hợp, bài thơ nầy thường đi đầu trong nhóm – một sắp xếp hợp lý, vì "Ode on Indolence" sơ họa những chủ đề được các tụng ca khác khai thác một cách đầy đủ hơn. Câu chuyện của "Ode on Indolence" vô cùng giản dị - một thanh niên dùng hết thời gian một mùa hè để suy ngẫm mông lung, cho đến khi ông bỗng ngạc nhiên trước hình bóng của Thần Tình Yêu (Love), Khác Vọng (Ambition), và Thi Ca (Poesy) xuất hiện bên ông. Ông bỗng thấy bị thôi thúc phải theo đuổi những hình ảnh đó, nhưng cuối cùng quyết định những cám dỗ của buổi sáng vật vờ của ông vẫn mãnh liệt hơn những cám dỗ của tình yêu, khát vọng, và thi ca.
Do đó chủ đề chính của "Ode on Indolence" cho rằng cảm giác tái tê dễ chịu trong trạng thái phờ phạt của nhân vật là một trạng thái được ưa chuộng hơn so với những trạng thái khích động của tình yêu, khát vọng và thi ca. Một trong những chủ đề lớn của các bài tụng ca của Keats là nỗi thống khổ của sinh ly tử biệt - nỗi đau khổ và tuyệt vọng phát xuất từ những dời đổi và kết liễu tất yếu của đời người, được nêu bật qua các bài thơ tràn đầy nghệ thuật. Trong bài thơ nầy, trạng thái phờ phạt của nhân vật, theo nhiều cách, dường như là một cố gắng làm nhạt nhòa bớt những đường ranh của thế giới, sao cho nỗi đau của đời không còn cay nghiệt quá mức. Nhân vật bác bỏ tình yêu và khát vọng đơn thuần chỉ vì chúng đòi hỏi ông trải nghiệm chính đời mình quá ác liệt và giữ lời hứa tất yếu phải kết liễu (i ) tình yêu - nhưng nhân vật không biết đó là gì và ở đâu; và (ii) khát vọng – qua ghi nhận vẻ xanh xao trên má và nét vật vờ trong mắt. Do đó thần Poesy (Thi Ca) đưa ra một thách thức đối với trạng thái phờ phạt (indolence), một thách thức quyến rũ nhất và đồng thời thù ghét nhất. thần Poesy bất tử và có thể biến hóa (vì Poesy là một ác quỷ - demon), nhưng đó là lời nguyền rủa dành cho indolence và đòi hỏi nhân vật phải cảm nhận đời minh một cách mãnh liệt – như thế sẽ không có thú vui nào ngọt ngào như trạng thái vô vi của indolence. – Đông Yê

Ode on Indolence
- John Keats
One morn before me were three figures seen,
With bowèd necks, and joinèd hands, side-faced;
And one behind the other stepp'd serene,
In placid sandals, and in white robes graced;
They pass'd, like figures on a marble urn,
When shifted round to see the other side;
They came again; as when the urn once more
Is shifted round, the first seen shades return;
And they were strange to me, as may betide
With vases, to one deep in Phidian lore.

How is it, Shadows! that I knew ye not?
How came ye muffled in so hush a mask?
Was it a silent deep-disguisèd plot
To steal away, and leave without a task
My idle days? Ripe was the drowsy hour;
The blissful cloud of summer-indolence
Benumb'd my eyes; my pulse grew less and less;
Pain had no sting, and pleasure's wreath no flower:
O, why did ye not melt, and leave my sense
Unhaunted quite of all but—nothingness?

A third time pass'd they by, and, passing, turn'd
Each one the face a moment whiles to me;
Then faded, and to follow them I burn'd
And ached for wings, because I knew the three;
The first was a fair Maid, and Love her name;
The second was Ambition, pale of cheek,
And ever watchful with fatiguèd eye;
The last, whom I love more, the more of blame
Is heap'd upon her, maiden most unmeek
I knew to be my demon Poesy.

They faded, and, forsooth! I wanted wings:
O folly! What is Love? and where is it?
And for that poor Ambition! it springs
From a man's little heart's short fever-fit;
For Poesy!—no,—she has not a joy,—
At least for me,—so sweet as drowsy noons,
And evenings steep'd in honey'd indolence;
O, for an age so shelter'd from annoy,
That I may never know how change the moons,
Or hear the voice of busy common-sense!

And once more came they by:—alas! wherefore?
My sleep had been embroider'd with dim dreams;
My soul had been a lawn besprinkled o'er
With flowers, and stirring shades, and baffled beams:
The morn was clouded, but no shower fell,
Tho' in her lids hung the sweet tears of May;
The open casement press'd a new-leaved vine,
Let in the budding warmth and throstle's lay;
O Shadows! 'twas a time to bid farewell!
Upon your skirts had fallen no tears of mine.

So, ye three Ghosts, adieu! Ye cannot raise
My head cool-bedded in the flowery grass;
For I would not be dieted with praise,
A pet-lamb in a sentimental farce!
Fade softly from my eyes, and be once more
In masque-like figures on the dreamy urn;
Farewell! I yet have visions for the night,
And for the day faint visions there is store;
Vanish, ye Phantoms! from my idle spright,
Into the clouds, and never more return!

Cước chú:
* Phidias là một nhà điêu khắc nổi tiếng Cổ Hy Lạp chuyên nặn tượng của các thần Hy Lạp.
Nhược Khúc
- Đông Yên
Một buổi sáng tôi nhìn ba khuôn mặt,
Đứng chắp tay, đầu cúi, mặt nhìn nghiêng;
Rồi Lặng lẽ theo nhau từng bước một,
Chân đi hài, áo trắng rũ điềm nhiên;
Dáng tha thước như tranh trên bình cổ
Khi xoay vòng để thấy phía bên kia;
Họ lại đến, như bình xoay lần nữa
Và cả ba như xuất hiện ban đầu;
Rất xa lạ như trên bình điêu khắc
Dưới mắt ai từng biết đến Phidias*

Những Chiếc Bóng! Ta chưa từng quen biết?
Làm thế nào ngươi len lỏi vào đây?
Ngươi có phải đã âm thầm toan tính
Đánh cướp ta rồi lặng lẻ bỏ đi
Ngày nhàn hạ? chín mùi như giấc ngủ;
Mây thiên ân của phờ phạt ngày hè
Tim chậm lại; mắt dìu hiu khép kín;
Thôi đớn đau, lạc thú chẳng cần hoa:
Sao không biến, cho hồn ta thanh thản
Dứt ưu phiền về lại với hư không?

Người xuất hiện ba lần, đi, rồi trở lại
Mỗi ngươi nhìn một lúc thẳng mặt ta;
Rồi biến mất, ước gì ta theo kịp
Nhận diện rồi nhưng không cánh để bay;
Cô thứ nhất tên là Thần Tình Ái
Cô thứ nhì Thần Khát Vọng xanh xao,
Mắt mệt mỏi đìu hiu nhìn đăm đắm;
Nàng thứ ba táo bạo nhất đáng
Và cũng chính là nàng ta oán trách,
Thần Thi Ca hay ác quỷ của ta.

Họ biến mất, quả nhiên! ta thiếu cánh:
Điên rồ thay! Thần Tình Ái đâu rồi?
Thần Khát Vọng! phóng mình như cơn sốt
Từ trái tim nhỏ bé của con người;
Còn nàng Thơ! – không, chẳng có gì vui,
Không dịu ngọt như trưa hè ngái ngủ,
Và những chiều phờ phạt miên man;
Đâu một thuở con tim không phiền muộn,
Chẳng quan tâm trăng khuyết với trăng tròn,
Thôi nghe tiếng cuộc đời luôn bận rộn!

Họ lại đến: - ôi thôi! làm chi nữa?
Khi ta say trong giấc ngủ đầy mơ;
Hồn ta ẩm như một vườn cỏ ướt
Bóng lung linh, hoa, và ít nắng trời:
Sáng mây phủ nhưng mưa không nhỏ hột,
Lệ Tháng Năm còn lơ lửng trên trời;
Khung cửa mở ép cành nho mới nở;
Lùa âm thanh và hơi ấm mặt trời;
Những Chiếc Bóng! Đã đến giời từ biệt!
Khóc lên ư? Không đâu nhé đừng mong.

Vĩnh biệt nhé, Tam Ma! Ngươi không thể
Nâng đầu ta khỏi gối ngủ êm đềm;
Và ta cũng không buông lời ca ngợi,
Như cừu non ủy mị của trò hề!
Hãy lặng biến khỏi mắt ta, lần nữa
Vào trong tranh tĩnh vật chiếc binh mơ;
Vĩnh biệt nhé! Đêm nay còn ảo ảnh,
Và còn đây ảo ảnh giữa ban ngày;
Ma! hãy biến để ta nhàn hạ ngủ,
Vào trong mây, đừng trở lại bao giờ!