Qua Cơn Bão Lửa

Kiều Mỹ Duyên

Khi Cộng quân mở cuộc tổng công kích toàn diện vào miền Nam Việt Nam mùa hè năm 1972, người ta nói rằng, Tướng Võ Nguyên Giáp đang làm một cuộc phiêu lưu bằng xương máu của 13 sư đoàn quân Bắc Việt. Sauk hi lửa đạn đã ngút trời từ Bến Hải chạy dọc theo rặng Trường Sơn vào tận miền Cao Nguyên Trung Phần, một thị trấn nhỏ bé nằm về hướng Bắc của Sài Gòn và cách Sài Gòn khoảng 95 cây số được những bàn tay máu của Bắc Việt khoanh tròn trên bản đồ quân sự: An Lộc.

Ký giả Joseph Alson của báo Los Angeles Times, người đã theo dõi trận An Lộc từ ngày khởi đầu, đã tuyên bố:

-         So với Khe Sanh năm 1968, An Lộc còn ghê gớm hơn nhiều, ngay như thiếu tường Hollingsworth, Cố Vấn Trưởng Đoàn III, một vị cố vấn quân sự nổi tiếng gan dạ như thế mà vẫn chưa dám đặt chân xuống An Lộc. Không như Khe Sanh hồi đó, ngày nào cũng có vài vị khách đến thăm. Báo Los Angeles Times cũng viết: “Cường độ pháo kích tại Khe Sanh còn quá nhẹ so với An Lộc. Khi lực lượng phòng thủ ở Khe Sanh năm 1968 là Thủy Quân Lục Chiến Mỹ thì chúng ta đau khổ gọi nơi đây là “Địa Ngục Khe Sanh”. Nhưng khi chúng ta biết đang có một cuộc tử thủ tại An Lộc còn ghê gớm hơn cả Khe Sanh, thì chúng ta lại thờ ơ, lãnh đạm, nói đến với một giọng điệu kẻ cả. Giả sử như quân đội Mỹ đang tử thủ tại đây, chắc cả nước Mỹ khóc nưc nở chứ không phải thờ ơ lãnh đạm như đối với những chiến sĩ của Việt Nam Cộng Hòa đang chiến đấu tại An Lộc bây giờ”.

Đầu tháng 4 năm 1972, một cuộc hội thảo về Bình Định Phát Triển cho các cấp từ Tư Lệnh Quân Khu, Tỉnh Trưởng, Quận Trưởng, Ty Sở Trưởng của toàn miền Nam được tổ chức tại Trung Tâm Huân Luyện Cán Bộ Vũng Tàu. Ngày khai mạc có Tổng Thống, Thủ Tướng và toàn thể nội các tham dự.

Sau ngày khai mạc, tình hình chiến sự tại Quảng Trị và Kontum đã trở nên nghiêm trọng. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho các Tư Lệnh Quân Khu I và Quân Khu II, cùg các vị tỉnh trưởng của hai vùng này trở về ngay tức khắc. Như vậy cuộc hội thảo chỉ cỏn các cấp chỉ huy hành chánh và quân sự của Vùng III và Vùng IV.

Sáng ngày 5 tháng 4, Đại Tá Trần Văn Nhựt, Tỉnh Trưởng Bình Long đang dự hội thảo thì Trung Tướng Cao Hảo Hớn, Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Bình Định Phát Triển Trung Ương cho người mợi Đại Tá Nhựt đến, ông nói:

-         Tổng Thống chỉ thị anh trở về Bình Long gấp. Bình Long đang bị đánh nặng.

Lúc đó là 10 giờ sáng. Vì đã có hẹn với mấy ty, sở trưởng chờ ở Bãi Sau để ăn cơm trưa. Đại Tá Nhựt ghé qua báo tin và ăn vội chén cơm trước khi lên xe trở về. Cơm dọn ra, không ai muốn cầm đũa. Nét mặt người nào cũng nặng vẻ lo âu. Tin từ Trị Thiên, tin từ Cao Nguyên, chiến cuộc thế nào họ đã biết. Bây giờ trong lúc họ đang ở đây, Bình Long bắt đầu những ngày lửa đạn.

Bình Long ngày trước là quận Hớn Quản. Năm 1960 được mở rộng và đổi thành tỉnh Bình Long. Dân số khoảng 80 ngàn người, sống rải rác trên 102 ấp, 22 xã của 3 quận Lộc Ninh, Chơn Thành và thị trấn An Lộc. Một phần ba đồng bào ở đây làm trong các đồn điền cao su, họ sống trong những căn nhà gạch do đồn điền xây cất, Một phần ba sống bằng nghề buôn bán, làm cây và một phần ba còn lại là đồng bào Thượng và Miên, họ sống trong các buôn, chung quanh có những hàng rào thiên nhiên do họ tạo lên và được bảo vệ bởi các trung đội Địa Phương Quân, Nghĩa Quân tuyển mộ tại chỗ, vì vậy họ quyết tâm sống chết với làng mạc của họ. Dưới con mắt của một tỉnh trưởng, Đại Tá Nhựt cho rằng đây là nơi lý tưởng để áp dụng chính sách Ấp Chiến Lược của thời Đệ Nhất Cộng Hòa.

Từ các căn cứ hậu cần nằm trong lãnh thổ của Cao Miên, một lực lượng khoảng 30 ngàn quân gồm các đơn vị chủ lực là Công Trường 5, Công Trường 7, và Công Trường 9, được yểm trợ bởi 100 chiến xa, 2 trung đoàn pháo binh và một tiểu đoàn đặc công tràn qua biên giới Việt Miên mà mục tiêu là tỉnh Bình Long. Muốn tiến vào Bình Long, Cộng quân phải san bằng Lộc Ninh, một tiền đồn sát ngay biên giới, một tấm bình phong che chở cho Bình Long. Mặc dù với một quân số quá nhỏ bé so với lực lượng của địch, 2 đại đội Địa Phương Quân, 2 tiểu đoàn Bộ Binh, 1 tiểu đoàn Biệt Động Quân và 30 thiết giáp, nhưng Lộc Ninh đã anh dũng chống cự. Đại Úy William Smith, cố vấn quân sự của quận này, trong ba ngày liên tiếp sau đó đã nổ lực xin pháo yểm trợ tối đa để cầm chân địch hầu có thời gian di tản dân chúng. Những người đã chứng kiến sự chống trả dũng mãnh của các chiến sĩ Địa Phương Quân và Nghĩa Quân tại Lộc Ninh đều ca ngợi tinh thần chiến đấu của họ không thua gì những binh chủng chủ lực khác của miền Nam. Đại Úy Jeff Gaynor, một cố vấn quân sự, tuyên bố:

-         Địa Phương Quân và Nghĩa Quân chỉ được huấn luyện và trang bị để đánh lại với du kích quân Việt Cộng nằm vùng mà thôi. Nay đánh với quân chính quy của Bắc Việt, họ đã tỏ ra cố gắng rất nhiều.

Vừa lên xe, Đại Tá Nhựt thúc tài xế chạy như bay trên đường về Bình Long. Qua Bình Dương, tới Lai Khê, khi qua trạm đổ xăng dành cho trực thăng, Đại Tá Nhựt thấy có hai người đứng ở trạm vẫy tay về phía xe của mình. Ra lệnh cho tài xế quẹo vào, ông thấy Trung Tá Nguyễn Tống Thành, Tiểu Khu Phó và Trung Tá Corley, cố vấn quân sự của Tiểu Khu đứng đó. Hai người này nhận ra ông vì lá cờ đuôi nheo màu xanh nón beret của Thủy Quân Lục Chiến cột trên cần ăng ten xe jeep của ông. Trung Tá Thành nói:

-         Quốc Lộ 13 bị đứt tại Tân Khai rồi, không đi đường bộ được đâu.

Đại Tá Nhựt hỏi qua tình hình, rồi cho tài xế mang xe về Chơn Thành. Ông vào bãi đáp lấy trực thăng vừa bay vừa liên lạc về Bình Long, biệt Lộc Ninh đang bị đụng nặng. Ông cùng Trung Tá Corley bay lên Lộc Ninh, liên lạc với Thiếu Tá Nguyễn Văn Thịnh, Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng, đồng thời liên lạc với Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 9 Bộ Binh để nắm vững tình hình rồi bay tuốt qua biên giới, lên tận Snoul quan sát xem địch có chuyển vận chiến xa và pháo binh để thêm vào mặt trận hay không. Đại Tá Nhựt không nhìn thấy một dấu hiệu chuyển quân nào của địch ở vùng này, chỉ thấy một đoàn thiết giáp của mình đang trên đường về giải cứu Lộc Ninh. Giữa Snoul và Lộc Ninh có  một căn cứ của Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Thiết Đoàn I Kỵ Binh trấn đóng. Trên đường về tiếp viện cho Lộc Ninh, thiết đoàn này đã bị chận đánh giữa đường.

Khi từ Snoul bay về, ở trên cao nhìn xuống, Đại Tá Nhựt đau lòng khi thấy Lộc Ninh và Trung Đoàn 9 chìm trong khói lửa vì pháo địch. Cũng nhờ chính đích thân bay quan sát tận Snoul, nên chiều hôm đó, máy bay trinh sát của Mỹ thấy một đoàn xe be của dân đi lấy cây về, xe be nào cũng có một cần trục đằng sau để chuyển cây lên xuống, máy bay Mỹ tưởng là Cộng quân kéo thêm pháo đánh Bình Long nên xin lệnh oanh kích. Đại Tá Nhựt can thiệp kịp thời, cứu một số dân khỏi chết oan ức.

Tối hôm đó, Đại Tá Nhựt bay xuống Chơn Thành. Tình hình của Chơn Thành vẫn còn yên ổn. Tại đây, gặp lại các vị ty, sở trưởng vừa từ Vũng Tàu về tới, ông hỏi:

-         Sao không họp nữa mà về?

Một trưởng ty đáp:

-         Sau khi Đại Tá về rồi, Tổng Thống cho lệnh hủy bỏ cuộc hội thảo, mọi người ai về nhiệm sở và đơn vị của mình.

Sẵn trực thăng, Đại Tá Nhựt bốc luôn mấy vị này về An Lộc và cùng chịu trận với nhau trong suốt thời gian bị Cộng quân vây hãm sau này.

Cuối cùng thì một tiền đồn nhỏ bé như Lộc Ninh không chịu nỗi những trận mưa pháo khủng khiếp và một cuộc xung phong biển người của địch nên đành di tản. Ngày 7 tháng 4, Công Trường 5 trành ngập Lộc Ninh. Tiếp theo là Bố Đức, Katum, Thiện Ngôn và Tống Lê Chân, một chuỗi tiền đồn nằm dọc biên giới Cao Miên của ba tỉnh địa đầu Quân Khu III là Phước Long, Bình Long và Tây Ninh đều phải di tản chiến thuật.

Sau khi chọc thủng phòng tuyến thứ nhất của quân trú phòng, Cộng quân tiến thẳng về mục tiêu: Bình Long. Chúng chia ra, Công Trường 9 từ Lộc Linh kéo về, có nhiệm vụ “công đồn”, Công Trường 7 mai phục trên Quốc Lộ 13, chặng đường từ Chơn Thành đến Bình Long để “đã viện”. Còn Công Trường 5 vẫn ở lại Lộc Ninh chờ xa luân chiến với Công Trường 9.

Và An Lộc đã sẵn sàng ứng chiến. Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 5 Bộ Binh do Tướng Lê Văn Hưng làm Tư Lệnh đã dời về đóng trong doanh trại cũ của Tiểu Khu Bình Long để chứng tỏ quyết tâm của miền Nam sẽ giữ Bình Long với bất cứ giá nào. Trái đạn pháo kích đầu tiên phóng vào thị xã An Lộc lúc 9 giờ sáng ngày 5 tháng 4, làm chết ông già gác cổng bệnh viện. Đóa là người chết đầu tiên vì pháo kích tại đây.

Cả thị trấn bỗng nhiên như một đàn ông vỡ tổ. Học trò bỏ lớp chạy về nhà. Hàng quán, tiệm buôn, chợ búa đều thu xếp dọn hàng, đóng cửa. Đến khoảng trưa thì thị trấn trở nên vắng vẻ và mọi người bắt đầu nghĩ tới chuyện làm hầm trú ẩn. Qua hôm sau, ngày 6 tháng 4, từng đoàn người từ các làng xóm chung quanh An Lộc kéo về thị trấn tị nạn. Đa số là người Thượng từ các buôn ở xa. Ấp Nhà Bò khoảng 200 gia đình Thượng, chỉ còn một người sống sót, người đàn ông Thượng bồng đứa con trai đang bị thương nặng cố gắng chạy về tới bệnh viện An Lộc.

Những trận mưa pháo đã bắt đầu dội vào thị trấn, phần lớn là hỏa tiễn 122 ly. Quân số của Tiểu Khu Bình Long lúc đó khoảng 700 Địa Phương Quân và Nghĩa Quân. Chủ lực là Trung Đoàn 9 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh của Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh và Thiết Đoàn I Kỵ Binh đã bị hao hụt nặng sau trận Lộc Ninh, Trung  Đoàn 52 thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh của Trung Tá Nguyễn Văn Thịnh đóng ở cầu Cần Lê, rút về còn chừng 300 người và Trung Đoàn 7 Bộ Binh của Trung Tá Lại Đức Quân.

Trước tình hình ngặt nghèo đó, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III, ra lệnh rút Trung Đòan 8 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh do Trung Tá Mạch Văn Trường chỉ huy để tăng cường cho An Lộc. Đồng thời buổi trưa ngày 6 tháng 4, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn Văn Biết, được trực thăng vận đổ xuống phi trường Bình Long. Các chiến sĩ biệt động quân chia làm hai cánh tiến vào thành phố. Dân chúng đứng hai bên đường đón chào một cách vui mừng và mang nước, thức ăn ra cho những người mới đến. Cái thị trấn nhỏ bé bỗng chốc tràn đầy cả lính.

Ngày 9 tháng 4, lần lượt các đồn Quãn Lơi, Xa Cam, Xa Cát và Xa Trạch, nằm trong vòng từ 1 đến 7 cây số chung quanh An Lộc đã lần lượt thất thủ. Cường độ pháo kích ngày càng tăng và số thường dân, binh sĩ bị thương đưa vào bệnh viện đã đến mức lo ngại. Ngoài phố, dân chúng canh chừng những lúc ngưng pháo kích, vội vàng mua sắm những thứ cần dung để dự trữ. Người ở nhà lo làm hầm trú ẩn. Những cao ốc đều được các đơn vị đưa ra trấn đóng. Công viên Tao Phùng trở nên một căn cứ hỏa lực của pháo đội thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh.

Những trận pháo đầu tiên làm cho người dân An Lộc khiếp đảm. Nhưng mấy ngày sau thì họ đã bắt đầu có kinh nghiệm và “lì đòn” rồi. Họ đã bắt đầu nghe được tiếng “đề pa” từ hướng nào và phân biệt loại đạn gì. Một bà khoe, đạn của Việt Cộng dễ biết lắm, cứ nghe tiếng rít gió là đạn bích kích pháo 82 ly, tiếng xèo xèo như chiên trên chảo nóng là đạn 105 ly, có tiếng hú như còi xe cứu thương là hỏa tiễn 122 ly… Mọi sinh hoạt đều bị giới hạn. Mặc dù có nhiều người nhún vai cho rằng “trời kêu ai nấy dạ”, nhưng họ cũng chỉ dám rời khỏi hầm những lúc cần thiết và không xa quá. Cái hầm bây giờ gắn liền với mọi người như cái mai của con rùa.

Từ ba ngày nay, những người bị thương vì pháo kích tràn ngập cả bệnh viện. Những người chở vào trước được nằm trên giường. Những người vào sau thì nằm la liệt trên nền nhà, tràn ra cả ngoài hành lang. Một người đàn bà Thượng có thai hơn 8 tháng, bị thương ở bụng, cố gắng sanh, nhưng đứa con chỉ mới ra được cái đầu thị chết ngộp vì người mẹ đã kiệt sức tắt thở. Những người tị nạn từ các nơi khác chạy về, họ không có phương tiện gì để làm hầm hố trú ẩn cho được chắc chắn như người trong thị trấn.

Tội nhất là những người Thượng. Khi chạy đến đây, một số chỉ quấn cái khố trên người. Những vết thương của họ được cột lại sơ sài bằng một miếng vải hay đắp bằng lá rừng. Họ đi bộ, khiêng nhau, dìu nhau, đói khát và một số gục ngã giữa đường. Người đến được bệnh viện thì vết thương đã làm mủ, hôi hám. Những người bị thương nằm trong bệnh viện trúng pháo một lần rồi, nên mỗi lần có pháo kích, họ như một đàn ong bị lửa, chạy như điên từ phòng này qua phòng khác để tìm nơi trú ẩn, nhưng đến đâu cũng nghe đạn rít trên đầu.

Khoảng 4 giờ sáng ngày 13 tháng 4 năm 1972, cả thị trấn An Lộc, quân cũng như dân, đều co mình lại dưới hầm trú ẩn vì một loạt pháo khủng khiếp với chừng 500 trái toàn là hỏa tiễn 122 ly phóng liên tục vào thị trấn. Quân phòng thủ biết ngay đó là dấu hiệu địch sắp tấn công. Sau trận pháo kích, khoảng 6 giờ 45 phút, một đoàn chiến xa từ 3 mặt xông thẳng vào thành phố. Chúng chia ra mỗi toán chừng 15 chiếc, trong đó có cả M41 và M13 của ta mà địch lấy được ở Lộc Ninh.

Bị tấn công bất ngờ bằng chiến xa, tuyến phòng thủ phía Bắc của An Lộc đã bị thủng. Một số chiến xa lọt vào trên các đường phố, hạ nòng súng đại bác 100 ly bắn phá dữ dội. Nói đến chuyện bắn hạ chiến xa địch, một người có công trạng đầu tiên mà ít ai biết đến đó là một anh Nhân Dân Tự Vệ. Khi thấy chiến xa địch nghêng ngang tiến vào, anh này giận quá, chỉa cây M72 ra bắn một phát cho đỡ tức, không ngờ phá thủng một lổ bên hông chiếc T54 và xe bốc cháy. Tin được báo lên, Đại Tá Nhựt liền ra lệnh xuất kho, mang hết M72 ra phát cho các đơn vị. Niềm tin tăng lên nhanh, và những người được trang bị M72 bắt đầu hào hứng lùng bắt tăng của địch.

Một điều làm cho chính những lực lượng phòng thủ ở An Lộc cũng ngạc nhiên về chiến thuật của địch quân, những chiến xa đầu tiên hùng hổ xông vào thị trấn rồi ngơ ngác, lạc lõng, chạy khơi khơi giữa đường để 15 chiếc vừa T54 vừa PT76 bị quân ta bắn hạ, sau đó, khoảng 3 ngàn khinh binh tùng thiết mới tràn vào tấn công. Người ta nói sự thiếu phối hợp này của địch là một may mắn cho An Lộc, nếu không, cái thị trấn nhỏ bé này với một quân số phòng thủ quá chênh lệch, chưa chắc đã qua khỏi đợt tấn công đầu tiên. Nhưng nếu xét cho cùng, thì đây là kết quả một kinh nghiệm làm việc của Đại Tá Nhựt. Khi được báo cáo đầy đủ danh sách những tên nằm vùng, ông để yên không đụng tới. Giờ phút cuộc chiến bắt đầu căng thẳng, mới ra lệnh bắt trọn. Bởi vậy, khi chiến xa địch tiến vào, chúng không có người hướng dẫn. Một phần những lực lượng tùng thiết của địch bị trực thăng võ trang làm cho chậm lại, một phần nhờ xử dụng loại đại bác 105 ly gắn trên máy bay AC130, trực xạ xuống mục tiêu rất chính xác. Theo kinh nghiệm, Đại Tá Nhựt cho rằng Cộng quân rất sợ loại đại bác này.

Tuy vậy, với lực lượng hùng hậu, khoảng gần trưa, địch đã chiếm được một phần ba thành phố về phía Bắc. Đó cũng là khu vực đông dân cư và khu vực buôn bán chính của thị trấn. Dân chúng trong vùng vừa bị địch chiến đã bất chấp bom nổ trên đầu, đạn bay dưới đất, bồng bế, dắt nhau chạy ùa qua phần đất còn lại của quân ta.

Mặc cho súng phòng không đan thành một màn lưới lửa trên bầu trời An Lộc, Không Quân can thiệp tối đa. Bom nổ từng chuỗi dọc theo những đường tiến quân của địch. Những cao ốc vừa bị địch chiếm bị trúng bom, gạch ngói tan tành, chon vùi luôn những người không chạy ra kịp. Mấy chiến xa T54 bốc cháy, làm thành những cột khói đen mờ mịt. Từng đoàn người già trẻ, lớn bé, máu me bê bết, người chạy, người lết vào bệnh viện. Tiếng la, tiếng khóc, tiếng kêu gọi nhau bị chìm mất trong tiếng bom đạn nổ không đứt. Và chỉ trong buổi sáng hôm nay, một thị trấn bé nhỏ với 15 ngàn người dân hiền hòa, đang sống yên ổn bình lặng bỗng chốc biến thành một địa ngục giữa chốn trần gian.

Buổi chiều cùng ngày, khi tiếng súng đã thưa dần, một vài người dân từ dưới hầm bò lên, chỉ mới sau một buổi, họ không còn nhìn ra thành phố thân yêu của họ nữa. Nhưng hai phần ba thành phố vẫn còn đứng vững. Niềm tự hào là mặc dù lực lượng của hai bên quá chênh lệch, phía địch quân, vòng trong, vòng ngoài gồm một lực lượng 30 ngàn quân chính quy, với chiến xa và trọng pháo đủ các loại, từ bích kích pháo 82 ly, đến hỏa tiễn 122 ly, quân ta chống trả một cách anh dũng, với quân số chưa đến 8 ngàn, không chiến xa, không trọng pháo, chỉ nhờ vào tinh thần quyết chiến và sự yểm trợ của Không Quân để kéo lại thăng bằng.

Bây giờ An Lộc đã trở thành một địa ngục, và cái trung tâm của địa ngục này là bệnh viện của thành phố. Những người còn nguyên vẹn sau bao nhiêu đợt pháo thì cuộn mình lại như con cuốn chiếu nấp kỹ dưới hầm. Những kẻ bị thương đều tìm cách lết vào bệnh viện. Nhưng họ đến đây để được gì hơn? Thuốc men đã cạn, người sống, người chết nằm chen lấn nhau từ phòng này qua phòng khác. Những xác chết sình lên, những vết thương làm mủ hôi hám, máu me, tiêu tiểu lai láng giữa nền nhà. Điều quan trọng nhất mà họ quên là bom đạn đâu có phân biệt được nhà thương hay trại lính. Các bác sĩ làm việc ngày đêm trong bệnh viện với một tình trạng thiếu thốn và khổ cực. Y Sĩ Đại Úy Nguyễn Văn Quý phải dùng những sợi nylon của bao cát, sát trùng bằng nước sôi để thay chỉ may vết thương khi giải phẫu.

Buổi sáng ngày 16 tháng 4, giữa lúc tình hình căng thẳng như vậy, một niềm vui chợt đến với mọi người. Tin Lữ Đoàn I Dù, dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Lê Quang Lưỡng và Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Phan Văn Huấn đang được trực thăng vận đổ xuống tiếp viện cho An Lộc. Hai lực lượng cùng đổ quân xuống Đồi Gió và tiến vào thị trấn. Mặc dù đồi này đã được một đại đội Địa Phương Quân và một đại đội Biệt Động Quân trấn giữ, nhưng Tiểu Đoàn 6 Dù của Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh vừa nhảy xuống là trúng pháo của địch, tổn thương khá nặng. Nhìn những chiến sĩ Dù và Biệt Kích Dù thận trọng từng bước di chuyển, người dân ở đây thấy vững niềm tin hơn. Bộ Chỉ Huy của Lữ Đoàn I Dù đóng chung với Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu của Đại Tá Nhựt, và trấn giữ mặt Nam. Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù trấn ở mặt Bắc của thành phố, tiếp giáp với phần mới bị địch quân chiếm giữ.

Sau đợt tấn công thứ nhất, những trận pháo kích dữ dội lại tiếp tục, ngày cũng như đêm, với số lượng cỡ 3, 4 ngàn trái pháo mỗi ngày. Nhưng chuyện pháo kích đã trở nên bình thường, bởi vì đến hôm nay, lo sợ vì pháo kích đã tuột xuống hàng thứ hai, thứ ba. Những điều lo sợ trước mắt là lương thực, nước uống và có thể một trận dịch nào đó sẽ xảy ra bởi tình trạng cuộc sống thê thảm như thế này. Tôi nhất là những đứa bé sơ sanh, người mẹ vì lo sợ quá đã tắt sữa, mà sữa hộp thì tìm đâu cho ra trong giây phút này. Quốc Lộ 13 vẫn bị Công Trường 7 đắp mô, đóng chốt, kiểm soát trên một đoạn dài 20 cây số, giữa Chơn Thành và An Lộc. Việc tiếp viện bằng đường bộ không thể thực hiện được một sớm, một chiều. Mọi người trông chờ một con đường khác: thả dù. Và những điều mong chờ đã đến. Một buổi sáng đẹp trời, những bành dù từ trên máy bay C130 thả xuống. Những bành dù đầu tiên là súng đạn. Những bành sau mới có lương khô. Tinh thần từ dân đến quân lên rất cao. Sự phấn khởi không phải chỉ đơn thuần vì súng đạn và thực phẩm được tiếp tế, mà những người đang tính tuổi đời của mình từng giây từng phút trong cái địa ngục trần gian này biết rằng những người ở ngoài không quên họ.

Những ngày sau đó, pháo của địch vẫn đều đặn rót vào thành phố, Cộng quân không mở một cuộc tấn công nào đáng kể. Người ta đoán rằng sau đợt tấn công thứ nhất, Công Trường 9 đã bị nát, nên rút quân ra chấn chỉnh trước khi tung vào một đợt tấn công khác hầu dứt điểm An Lộc, kịp có một thủ đô để ra mắt chính phủ lâm thời của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đúng ngày 20 tháng 4 năm 1972 như kế hoạch đã vạch ra.

Người dân An Lộc không vui vẻ tí nào khi nghe cái thị trấn bé nhỏ của mình được chọn làm thủ đô. Và giả sử như những bàn tay đạo diễn đầy máu me kia có thể chiếm An Lộc để ra mắt một chính phủ trên đống gạch vụn điêu tàn này, thì làm sao xác của hàng trăm người dân vô tội còn nằm vất vưởng nơi đây có thể vỗ tay chào mừng chính phủ cách mạng của những người đến đây để giải phóng họ?

Đó là theo cung từ của một số tù binh mà ta bắt được mà trong ba lô của mỗi tù binh đều có một bộ quân phục mới toanh, họ cho biết được phát để dành mặc vào ngày ra mắt chính phủ lâm thời.

Suốt đêm ngày 10 và rạng ngày 11 thang 5 năm 1972, một trận pháo kích tưởng chừng như thành phố An Lộc sẽ sụp luôn xuống lòng đất. Có lẽ cả trung đoàn pháo của địch cùng nhắm vào đây mà khai hỏa một lần. Đại Tá Nhựt đã thức giấc từ hồi nào, tiếng của ông điều quân qua máy truyền tin lớn hơn mọi khi vì tiếng pháo nổ ầm ầm không dứt. Phòng tuyến của quân ta đã chia sẵn: hướng Bắc An Lộc, trong khu phố đã bị đổ nát vì đợt tấn công lần đầu được trấn giữ bởi Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù, hướng Đông Bắc do Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân. Hướng Đông do hai đại đội Địa Phương Quân cùng mấy trung đội Nghĩa Quân và Nhân Dân Tự Vệ, hướng Tây có Trung Đoàn 8 và Trung Đoàn 9 của Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Trung Đoàn 52 của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, hướng Nam có Lữ Đoàn I Dù trấn đóng. Các đơn vị này, tính đến hôm nay, không có đơn vị nào còn nguyên vẹn. Trung Đoàn 9 nặng nhất ở trận Lộc Ninh. Trung Đoàn 52 tổn thất lớn khi rút lui khỏi căn cứ Hồng Tâm. Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân cũng thiệt hại sau khi đổ quân vào An Lộc. Lữ Đoàn I Dù có Tiểu Đoàn 6 bị trúng pháo nặng khi vừa đổ quân xuống Đồi Gió và bị chận đánh trên đường vào thị trấn, nhưng lực lượng này đã lập nhiều chiến công nhất. Chỉ có Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù là ít bị thiệt hại, vì họ có một lối đánh rất đặc biệt. Những chiến sĩ Biệt Kích Dù đục tường, đánh luồn từ nhà này qua nhà khác, dùng kỷ thuật giao chiến trong thành phố, đánh cận chiến, lưỡi lê và lựu đạn, lấy độc trị độc: đánh đặc công, đánh du kích.

Khoảng 4 giờ 30 sáng thì cường độ pháo kích đã tăng lên đến mức cực điểm. Có thể nói trong cái thành phố này, không có tấc đất nào là không bị đạn pháo rơi xuống. Khoảng 4 giờ 45 phút , Đại Tá Nhựt tập hợp các ty, sở trưởng của các cơ sở hành chánh và bằng một giọng bình tĩnh, nhưng ai cũng hiểu là đã đến lúc rồi, ông ra lệnh cho mọi người sẵn sang chiến đấu.

Khoảng 5 giờ thì tiếng pháo thưa dần, báo hiệu một đợt tấn công sẽ bắt đầu. Xe tăng của địch từ hướng Nam và Tây Nam tiến vào. Bộ Binh địch tấn công ào ạt ở hướng Tây và Đông Bắc. Công Trường 5 đã từ Lộc Ninh kéo về phối hợp với Công Trường 9 quyết chiếm An Lộc. Không Quân yểm trợ tối đa. Tiếng mini-gun và tiếng của đại bác 105 ly từ trên các trực thăng và máy bay AC130 tạo nên một chuỗi âm thanh kỳ quái giữa lưng trời. Tiếng bom nổ át hẳn tiếng đạn pháo kích. Từ một anh Nhân Dân Tự Vệ đến một chiến sĩ Dù, mọi người đều chiến đấu một cách quyết liệt. Họ biết sự sống còn là trong giây phút hiện tại. Cả thế giới đang nhìn về cái thành phố bé nhỏ này. An Lộc còn hay mất là một ảnh hưởng chính trị lớn lao cho cả hai bên.

Khoảng 5 giờ 30 sáng, mọi người nghe những tiếng gió rít từ trên trời, khác hẳn với tiếng pháo, đầu còn nhỏ, sau tiếng rít lớn dần và một chuỗi những tiếng nổ long trời lỡ đất. Cả thành phố An Lộc rung rinh như muốn vỡ ra từng mảh. B52 đang “trải thảm”. Loạt bom đầu tiên thả xuống sát vào tuyến phòng thủ của quân ta. Rồi những loạt bom khác tiếp nối, tạo thành một vòng khói lửa bao quanh thành phố An Lộc.

Khi trời hừng sáng tiến pháo gần như đã dứt. Tuyến phòng thủ Dù vẫn y nguyên, 5 chiếc T54 nằm như 5 đống sắt trước phòng tuyến. Điều đáng nói là Ty Cảnh Sát Bình Long đã bị 4 chiếc T54 tiến vào trước Bộ Chỉ Huy rồi mà bắn hạ được 2 chiếc, 2 chiếc còn lại phải tháo lui. Phòng tuyến của Địa Phương Quân, Nghĩa Quân và Nhân Dân Tự Vệ vẫn giữ được nguyên vẹn, mặc dù quân số bị tổn thất. Địch quân chiếm thêm được Ty Công Chánh và Ty Chiêu Hồi. Một sĩ quan cố vấn quân sự Mỹ cho biết, để yểm trợ cho An Lộc trong ngày hôm qua, đã có tất cả 26 phi vụ B52 được thực hiện. Có những phi vụ yểm trợ cho chiến trường Trị Thiên và Cao Nguyên, đang giữa đường, phải đổi hướng bay về An Lộc. Mỗi phi vụ có 3 chiếc B52, mỗi chiếc mang 54 ngàn cân bom. Có thể nói đây là một ngày “trải thảm” lớn nhất trong lịch sử pháo đài bay B52. Đại Tá Trần Văn Nhựt cho rằng, B52 vốn là không quân chiến lược. Nhưng đã sử dụng ở An Lộc như không quân chiến thuật.

Trước ngày Cộng quân tấn công đợt này, Tiểu Khu Bình Long bắt sống được Thiếu Úy Nguyễn Thế Hòa, thuộc Tiểu Đoàn Đặc Công 228 của Công Trường 5, nên đã biết rõ kế hoạch tấn công của địch.

Cuộc chiến tạm lắng dịu. Mức độ pháo kích ngày nào nhẹ thì chừng một hoặc hơn một ngàn quả. Có ngày cũng 3, 4 ngàn quả. Ngày nào pháo kích nhẹ, Đại Tá Nhựt đi vòng vòng thăm hỏi và kiểm soát từng công sự phòng thủ. Bởi vậy ông nắm vững tình hình, nên khi có chuyện gì, lệnh lạc của ông rất hợp tình, hợp lý. Ngoài việc lo phòng thủ, trên cương vị một tỉnh trưởng, ông còn phải lo cho dân chúng trong thị trấn. Vấn đề lương thực, thuốc men và bệnh tật trong những điều kiện như thế này, quả thực là một gánh nặng trên vai ông.

Những ngày đầu, sự lo sợ vì pháo kích và chờ đợi địch tấn công làm cho người ta quên đi những vấn đề khác. Bây giờ cuộc chiến thật là quái lạ. Địch và ta có nơi chỉ cách nhau một con đường. Bên ta có ai buồn buốn xách súng M79 bắn qua bên kia vài phát, địch bắn trả lại vài phát, cũng bằng M79. Các khu trục A37 của ta dội vài chục trái bom xuống vòng vây bên ngoài, địch phóng vào thành phố vài chục trái hỏa tiễn trả đũa.

Mọi sinh hoạt không xa quá cái hầm trên 10 thước. Tiền bạc không dùng trong việc mua bán nữa, mà thuốc lá trở thành một loại tiền tệ mới. Thuốc lá có thể đổi lấy gạo, thức ăn, máy móc, đồng hồ…Điều mà người ta lo sợ đã thấy trước mắt: dịch tả. Hàng chục trẻ em hai mắt trủng sâu, người gầy như bỗ xương rồi lả đi mà chết. Một người đàn ông Thượng vạm vỡ, chỉ mới ói mửa và tiêu chảy một ngày là chết. Đích thân Đại Tá Nhựt phải liên lạc với Sài Gòn để xin tiếp tế thuốc.

Địch vẫn pháo kích đều đặn vào An Lộc. So với những ngày trước, có ngày cường độ pháo kích lên đến 10 ngàn quả, bây giờ chỉ còn trên một ngàn. Người dân An Lộc nay cũng như người sống trong một miền mưa dầm, nếu đợi tạnh mưa rồi mới ra khỏi nhà thì đợi đến bao giờ, cho nên đến hôm nay, thành phố đã thấy một vài sinh hoạt. Cứ “đội pháo” mà đi, trời kêu ai nấy dạ.

Và trong suốt thời gian An Lộc bị vây hãm, có hai việc vẫn đều đặn mỗi ngày cho cả hai bên, kẻ công, người thủ. Cái đều đặn thứ nhất là bên địch quân, họ pháo liên tục, không ngừng nghỉ một ngày nào. Cái đều đặn thứ hai của một số cấp chỉ huy bên ta, pháo mặc pháo, mỗi ngày các vị đều chịu khó đến hầm chỉ huy của Đại Tá Nhựt, gọi điện thoại về trấn an gia đình.

Cứ buổi chiều, người ta thấy một chiếc xe Honda chở 3 ngưởi, từ Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Bình Long chạy đến hầm chỉ huy của Đại Tá Nhựt, khoảng nửa cây số, cả 3 đều nón sắt, áo giáp, súng ống cẩn thận, người ngồi giữa là Trung Tá Thương Thái Tôn, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Bình Long. Chịu khó hơn nữa là phải nói đến Trung Tá Nguyễn Chí Hiếu, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Dù, từ mặt trận Trị Thiên được bốc về tiếp viện cho An Lộc. Sau khi thấy tình hình đã tạm lắng dịu, ông xin Đại Tá Lê Quang Lưỡng cho Trưởng Tiểu Đoàn 5 ra ngoài rừng cao su, cách An Lộc một cây số, để giữ thế trong ngoài tiếp ứng nhau. Và chiều chiều, người ta thấy Trung Tá Hiếu cùng vài đệ tử lững thững đi bộ từ rừng cao su vào gọi nhờ điện thoại về Sài Gòn.

Ngay sau khi An Lộc bị vây khổn, một Lực Lượng Đặc Nhiệm khoảng 20 ngàn quân được Bộ Tổng Tham Mưu thành lập, gồm Biệt Động Quân Dù, Thiết Giáp và Bộ Binh, đặt dưới quyền điều động của Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III/Quân Khu III. Trước một số phóng viên chiến trường trong và ngoài nước, Tướng Minh tuyên bố:

-         Chúng tôi sẽ tổng phản công và nắm chắc phần thắng. Một cánh của Lực Lượng Đặc Nhiệm tiến dọc theo Quốc Lộ 13 để đánh thẳng vào Tân Khai. Hai cánh khác được trực thăng vận đổ xuống phía Đông Nam của Bình Long để đánh ngang hông Công Trường 7 đang mai phục dọc theo Quốc Lộ 13 từ Chơn Thành đến An Lộc. Những chiến xa M48 có nhiệm vụ san bằng những đoạn đường mà địch đào hố, đắp mô gây trở ngại. Hai tiểu đoàn Biệt Kích Dù được đổ xuống vùng Lưỡi Câu, bên kia biên giới, để chận đường rút lui của địch. Một cánh khác đổ xuống phía Đông Lộc Ninh để tiêu diện hậu cứ một trung đoàn thiết vận xa của địch. Sư Đoàn 3 Không Quân lập được nhiều chiến tích, đã phá hủy một kho đạn và mộ kho xăng lớn dùng cho chiến xe của địch. Tiểu Đoàn 6 Dù của Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh đã bị pháo và tổn thất nặng khi vừa đổ quân xuống Đồi Gió, tiểu đoàn này được trực thăng bốc ra bổ xung quân số, rồi sau trở lại bắt tay được với các đơn vị ở An Lộc.

Tại An Lộc, những đơn vị trú phòng cũng bắt đầu phản công để nới rộng dần vòng đai phòng thủ. Những ngày cuối tháng 5, Tướng Hưng tung quân tận chân Đồi Gió. Đầu tháng 6, Biệt Kích Dù đánh lên hướng Bắc và kiểm soát đồi Đồng Long. Một vài chiếc trực thăng tải thương do những phi công gan lì đã đáp xuống dưới cơn mưa pháo của địch.

Mọi người mong ngóng Lực Lượng Đặc Nhiệm đến giải tỏa An Lộc, nhưng Công Trường 7 của Cộng quân vẫn bám chặt ở chốt Tân Khai. Quân ta tiến lên rất chậm, có những chốt “nuốt không trôi” đành phải đi vòng. Ngày tiến xa nhất đã đến được Xa Cam, chỉ còn cách An Lộc 2 cây số nữa, nhưng hôm sau phải lui lại một đoạn.

Trong suốt 60 ngày An Lộc như chìm vào địa ngục, có một người vẫn giữ được sự bình tĩnh một cách đáng nể: Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh kiêm Tư Lệnh Chiến Trường Bình Long. Với dáng dấp, phong thái như một nhà giáo, ông quyết định mọi việc một cách trầm tĩnh, ngay đến những ngày địch chiếm được ty Công Chánh, là chỉ còn cách hầm chỉ huy của ông chừng 200 thước. Giải quyết chiến trường từ tốn như Tướng Hưng, cũng là cách làm cho địch tự tiêu hao. Một số tù binh bắt được sau này khai rằng hầu hết các đơn vị Cộng quân tham chiến tại đây đã cạn đạn dược và lương thực. Lệnh không cho nấu ăn vì sợ máy bay dội bom, nên những rau trái kiếm được phải ăn sống. Và sau bom đạn là một sự thử thách về tinh thần và sức phấn đấu. Địch quân với 30 ngàn người, 100 chiến xa, 60 khẩu đại pháo đủ loại, đã làm tan nát cả thành phố An Lộc và giết biết bao người dân vô tội. Nhưng cuối cùng, An Lộc vẫn đứng vững, An Lộc không bao giờ sụp đổ, bởi vì toàn dân, toàn quân tại đây đã chiến đấu với một tinh thần rất dũng cảm.

Một ngày đẹp trời tại An Lộc, có nghĩa là một ngày địch chỉ pháo cầm chừng khoảng 5, 6 trăm trái đạn, Đại Tá Nhựt đang dùng cơm trưa trong hầm chỉ huy thì Trung Tá Knowlde, Cố Vấn Trưởng Tiểu Khu Bình Long báo có phái đoàn đến thăm. Khách đến hôm nay là Tướng Tallman, vị tướng này không tin rằng Lộc An “ghê gớm” hơn Khe Sanh, nên chờ yên ổn rồi đến thăm cho biết.

Đại Tá Nhựt nghĩ rằng vị tướng này không có liên hệ gì với Tiểu Khu Bình Long, lại thăm viếng không chính thức, nên để cho Trung Tá Knowlde ra đón mà thôi. Trung Tá Knowlde mạng còn lớn nên chưa kịp đến đón thì phái đoàn đã đi bộ từ bãi đáp đến hầm chỉ huy. Một quả đạn 75 ly do địch quân từ trên Đồi Gió bắn vào phái đoàn vừa đặt chân xuống An Lộc. Tướng Tallman bị thương trầm trọng, một Thiếu Tá Mỹ bị gãy tay, hai sĩ quan Mỹ và một Trung Sĩ thông dịch viên người Việt chết ngay tại chỗ. Tướng Tallman được trực thăng bốc ngay về cấp cứu, nhưng vết thương trầm trọng, không thể nào cứu chữa.

Nhớ một lần gặp nhau ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, Đại Tá Nhựt nói đùa vị tướng này:

-         Thiếu Tướng không cao mà có tên Tallman.

Cho đến tháng giêng năm 1973, thì Trung Tá Knowlde không còn may mắn như ngày hôm nay nữa. Trước ngày ngưng bắn, Liên Đoàn 5 Biệt Động Quân do Trung Tá Ngô Minh Hồng chỉ huy đến thay thế cho Liên Đoàn 3 rút về dưỡng quân. Buổi tối ngày 22 tháng 1 năm 1973, Trung Tá Hồng tổ chức nhảy đầm tại một tư gia trong thị trấn. Trung Tá Knowlde có đến tham dự.

Đúng 12 giờ đêm, một quả pháo rơi ngay vào nơi những người đang vui vẻ mừng cho ngày tàn của cuộc chiến, Trung Tá Knowlde chết ngay tại chỗ, chết trước giờ ngưng bắn đúng 8 tiếng đồng hồ, và được xem như người quân nhân Mỹ cuối cùng chết trong cuộc chiến Việt Nam. Lễ an táng của ông được cử hành trọng thể, quan tài đặt trên một chiếc xe ngựa, xe diễn hành qua trước tòa nhà Quốc Hội của Hoa Kỳ.

Buổi sáng ngày 25 tháng 8 năm 1972, Đại Tá Nhựt cùng với các xã trưởng cúng đình rồi sau đó ăn uống với nhau để mừng ngày An Lộc tạm yên. Đến 3 giờ chiều, điện thoại từ Quân Đoàn III gọi đến báo Đại Tá Nhựt chuẩn bị về trình diện Tổng Thống để ra nhận Sư Đoàn II Bộ Binh thay tướng Phan Hòa Hiệp đã từ chức vì trận Quế Sơn. Một giờ sau, trực thăng đến bốc Đại Tá Nhựt về trình diện Quân Đoàn III và sáng hôm sau về Sài Gòn trình diện Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.

Buổi chiều ngày 26, Đại Tá Nhựt về thăm gia đình tại Sài Gòn. Bà cụ nghe tin liền can ngăn:

-         Con đã sống chết với An Lộc thì cứ ở lại An Lộc, hoặc xin giữ một chức gì nhỏ thôi cũng được, đừng đi làm Tư Lệnh Sư Đoàn.

Đại Tá Nhựt nhìn qua người bạn đời của mình để hỏi ý. Nhưng có gì khác đâu, người đàn bà nào cũng muốn chồng mình là con tàu nằm yên trong bến đậu. Đã hơn ba tháng qua, trái tim của người chinh phụ cứ thắt lại theo từng đợt pháo, từng trận tấn công của địch vào An Lộc. Bây giờ, nơi miền Trung xa xôi đó….

Nhưng Đại Tá Nhựt chưa phài là người muốn yên nghỉ. Ông nhìn lại quãng đời của mình, đã 20 năm trong quân ngũ. Khoác áo nhà binh khi mới 18 tuổi. Xuất thân từ khóa 10 Đà Lạt, lúc Điện Biên Phủ còn chưa kết liễu. Ông đã giữ từ chức Trung Đội Trưởng, đến Đại Đội Trưởng Bộ Binh. Đầu năm 1955, tình nguyện về binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, qua các chức vụ từ Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, Tham Mưu Trưởng kiêm Tư Lệnh Phó Thủy Quân Lục Chiến.

Năm 1963, đang nắm Tiểu Đoàn I Thủy Quân Lục Chiến, ông tham gia cuộc đảo chánh, chiếm đài phát thanh Sài Gòn. Sau khi Tướng Nguyễn Khánh chỉnh lý, những người tham dự đảo chánh, một số bị giam, một số bị loại. Ông bắt đầu trôi nổi theo những chức vụ “ngồi chơi” cho có: Tùy Viên Quân Sự tại Manila hơn 2 năm, về nước làm Phụ Tá Đổng Lý Bộ Quốc Phòng cho Trung Tướng Nguyễn Hữu Có. Một thời gian sau, ông lại được đưa về Trung Tâm Huấn Luyện Của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, tiếp đó là Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 Bộ Binh, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 48 Bộ Binh và nay Tỉnh Trưởng Bình Long.

Bây giờ đất nước cần, ông không thể từ chối, mặc dù ông biết sau trận Quế Sơn, Sư Đoàn II Bộ Binh đã nát gần một nửa, và tình hình chiến sự ở miền Trung còn rất căng thẳng. Ông biết khi về nắm Sư Đoàn II, ngoài việc chỉnh đốn sư đoàn, thì việc chiếm lại Quế Sơn và giữ vững vùng trách nhiệm ở đây cũng khó khăn đâu kém gì việc ông đã tử thủ tại An Lộc. Nhưng ông là một chiến sĩ, chưa bao giờ ngần ngại trước một thử thách nào.

Ngày 27 tháng 8 năm 1972, một chiếc máy bay của Hoa Kỳ dành riêng để đưa ông ra Huế trình diện Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I. Giã từ An Lộc. Giã từ những người đã chung vai sát cánh với ông trong 144 ngày dài nhất của cuộc đời để giữ cho thành phố này qua cơn bão lửa.