Người Đi Săn Mặt Trời - Đông Yên

English version: The Sun HUnters - Đông Yên

Available on AMAZON.COM- ISBN: 9781495808333

 (Tên nhân vật trong truyện nầy hoàn toàn giả tưởng.)

 

Vào một đêm giữa năm 1952 một trận bão đã bất ngờ hoành hành dữ dội khu vực tỉnh Quảng Nam từ Tam Kỳ trở vào.  Đây là một trận cuồng phong đúng hơn là bão, vì suốt đêm không có một giọt mưa mà chỉ toàn gió mạnh. Sáng ra, người ta thấy tất cả lá của những loài cây ăn trái và rau xanh đều bị nám cháy giống như vì lửa, kể cả lúa ngoài đồng. Do đó người tản cư ở vùng Kỳ Khương phía nam Tam Kỳ gọi đó là trận bão lửa, mặc dù không có lửa ngọn mà chỉ có một loại sức nóng nào đó về theo với bão. Điều ngạc nhiên là trong đêm không ai thiệt mạng vì nhiệt độ đốt cháy nầy; và cũng không ai cảm thấy sức nóng dù họ đã thức suốt đêm vì sức rung chuyển và gầm thét của cơn bão. Thêm vào đó, hầu hết những mái tranh của họ đã bị gió thổi bay, muốn ngủ cũng không được.  Nhà nào có người khỏe mạnh thì ra ngoài dùng dây dừa cột vào góc mái nhà rồi neo xuống đất để giữ cho nhà khỏi đổ. Đáng lý công việc phòng bão nầy đã được thực hiện từ trước như họ vẫn làm mấy năm trước khi mùa mưa bão sắp đến; nhưng năm nay trận bão lửa nầy đã đến sớm hơn dự tính khiến họ không kịp trở tay.  Thường năm, trước khi vào thu, họ chuẩn bị những cây tre lồng ngà thật to và dài.  Họ gác hai cây một ở hai đầu mái nhà thành hình chữ V chúc ngược đầu theo thế yên ngựa rồi buộc thật chặt hai đầu cây vào nhau ở trên nóc nhà. Mỗi nhà như thế có hai cặp nạn hình chữ V chụp xuống kèm chặt cho nhà khỏi ngả khi có bão lớn như hai thần linh dang rộng đôi tay che chở đời họ nếu được nhìn từ trời cao hay từ không gian rất trống trong thời đầu của vũ trụ. Theo nghĩa gần xa nào đó, hình ảnh của những chữ V chúc ngược đầu minh họa rất rõ câu ngạn ngữ "bẻ nạng chống trời". Và cũng nếu nhìn từ trên cao thì đó chẳng khác nào một chiếc bè nhỏ bé đang trôi dạt trên đại dương hay bức tranh đơn độc của một đám du mục hiền hòa đang dừng chân ven đồng cỏ của thời tiền sử. Trên đồng cỏ đó có đầy đủ vết tích tiến hóa do nền văn minh Tây Phương của thập niên 1940 và 1950 biểu hiện. "Bẻ nạng chống trời" cũng là tựa đề của bức tranh du cư, trong đó con người thể hiện phần nào sức đối kháng của mình với thiên nhiên và đối kháng đó là công khai, nếu không nói là thách thức.  Ngược lại phương tiện đối phó với hiểm họa do con người gây ra, về phía giặc, chỉ được thể hiện ở sự ẩn núp và lẫn trốn dưới dạng hầm hố và né tránh. Còn về phía hệ thống cai trị, nói chung, họ chỉ biết phục tùng, đồng lỏa hay nằm đợi thời cơ, vì bấy giờ chiến tranh mới là kẻ thù chính, tài sản và sinh mạng của họ bị cướp đi hằng ngày.

 

Sự thiệt hại do cơn bão được thấy rõ ràng nhất trên những lá khoai môn và rau muống khô, rau lang, và rau nhiếp cá.  Trong khi đó, dương liễu, khuynh diệp, cỏ , gai long, và mía thì không bị ảnh hưởng gì cả. Mùa màng năm đó coi như trắng tay. Mãi mấy ngày sau những thửa ruộng trồng lúa và trồng nếp vẫn tiếp tục tàn lụi theo màu nâu đen và sau cùng là màu xám của tro; thân lúa càng ngày càng gục đầu thấp hơn. Hy vọng phục hồi không còn nữa; cuối cùng nông dân phải "gặt sớm" để đem về làm rơm cho trâu bò ăn; còn người thì phải buộc bụng chờ đến mùa sau. Khoai lang, khoai mỳ, và bắp cũng chịu chung số phận.

 

Mỗi sáng bà Năm bán bánh nậm vẫn còn ôm thúng đi bán rao; ông Hàn bán bánh ú vẫn rao bán hàng đêm; và anh chàng sún răng bán kẹo kéo vẫn dẻo mồm "kẹo kéo thơm ngon vừa thơm vừa béo; người nào chồng bỏ chồng chê, ăn vô kẹo kéo chồng mê tới già." Tuy nhiên, sau một thời gian những tiếng rao đêm, rao ngày như thế thưa dần... rồi tắt hẳn. Từ đó phiên chợ "chồm hổm" vào mỗi chiều trên đoạn quốc lộ trước nhà ông Hương Nhì lại vắng hẳn đi vì người địa phương đâu còn rau trái mà mang đi bán. Người tản cư tiếp tục chống chọi những ngày tháng trước mắt với số khoai sắn lát phơi khô để dành từ mùa trước; còn gạo thóc thì chẳng để dành được bao nhiêu vì đâu có tiền nhiều để làm thế.

 

Hai nhóm dân địa phương và tản cư thường đối tác qua những vụ mua bán nhỏ như rau quả, gà vịt, tre, trúc, và khoai gạo...  Ngoài ra họ không thân thiện với nhau mấy, và cũng không sẵn lòng giúp đỡ lẫn nhau, không kể những kỳ thị ngấm ngầm và đôi khi công khai. Người địa phương xem thường những người tản cư vì họ chỉ đến đây để ăn nhờ ở đậu và chờ dứt chiến tranh để ra đi, hoặc ra đi sớm hơn thế.  Đa số cộng đồng thứ hai nầy không có tài sản gì để mang theo, nghĩa là nghèo, nói chung, nghèo ruộng, nghèo đất, nghèo nhà, nghèo tiền của, và thậm chí nghèo cả con cái vì chiến tranh đã cướp đi một phần con cái của họ hoặc không cho phép họ sinh con đẻ cái trong hoàn cảnh đói khổ và hiểm họa. Họ cũng không có được sự bình yên tương đối của người địa phương, ít nhất vào lúc nầy, khi cuộc chiến chưa thực sự ảnh hưởng đến những vùng xa thị thành như ở phía nam Tam Kỳ.  Đa số nhà cửa của họ đều ở cách xa quốc lộ một bên kia vùng cát trắng nghèo nàn mà đám dân du cư đang sống.  Nhà của họ lợp ngói và nằm giữa những khu vườn cây ăn trái, trong lòng những lũy tre xanh, phía trước có mấy thửa ruộng...Nhưng ngược lại người địa phương cũng có mặc cảm riêng vì đa số người tản cư đều đến từ những huyện trước đây vốn giàu có và tiếng tăm văn học như Điện Bàn, Duy Xuyên, hoặc những thành phố lớn như Hội An, Đà Nẳng, những thị trấn  khá giả như Vĩnh Điện, Tam Kỳ. Một số thiếu nữ của các gia đình tản cư vẫn còn mang bản chất khuê các của thị thành hay của con nhà địa chủ. Trước khi đến định cư ở đây, phần lớn những người tản cư đã đi qua và tạm cư tại nhiều địa danh khác nhau. Một số đã lê đi khắp các vùng rừng thiêng nước độc phía tây của Quảng Nam như Tiên Phước, Quế Sơn, Bình Huề, Phú Toản, Trà My, An Điềm, Tiên Lãnh... Họ thậm chí còn vào sâu tận An Lão, Trà Bồng, Ba Gia Đồng Ké ở thượng nguồn sông Trà Khúc thuộc tỉnh Quảng Ngải, hay An Thường, một thị trấn nhỏ của tỉnh Bình Định, cách Bồng Sơn khoảng vài chục cây số về phía tây. 

 

Họ phải đi nhiều vì không ở đâu họ có thể sống ổn định và tạo được cơ ngơi vật chất thỏa đáng, nếu không kể những tai họa chiến tranh thường giáng xuống bất ngờ. Thông thường ai sống nhiều, đi nhiều, trải nghiệm nhiều kẻ đó có thêm nhiều hành trang và sức mạnh cho cuộc sống và tâm hồn, điều mà người địa phương không có. Câu tục ngữ "Đi ngày đàng học sàng khôn" không đơn thuần là câu dân gian ví von chỉ có giá trị trong đám bình dân.  Người tản cư dễ chấp nhận thay đổi trong cuộc sống hơn, dễ cảm thông với đau khổ của người khác, dễ xem thường các định chế, qui ước, và qui luật của con người, dễ thách thức uy quyền do con người tùy tiện áp đặt, ít có xu hướng phục tùng. Không nơi nào được xem là quê hương của họ nên mọi nơi đều là chỗ tạm trú và dừng chân, cuộc sống luôn luôn ở phía trước. Những giá trị trên đời chỉ có tính cách tương đối và tạm thời, một tư duy hoàn toàn đối nghịch với xu hướng bảo thủ, cố chấp, và hẹp hòi nơi người địa phương.

 

Cộng đồng người du cư chỉ gồm vài chục gia đình sống rải rác tại vùng đất lúc bấy giờ mang tên là Vân Khương hay còn gọi là Kỳ Khương, dọc theo quốc lộ một phía bắc con sông Bến Váng và cách Tam Kỳ khoảng năm mươi cây số về phía nam. Con sông Bến Váng có khi còn được gọi là sông An Tân, và ngày nay hình như có một tên mới là sông Trường Giang. Cộng đồng nầy chủ yếu trải dài khoảng nửa cây số từ bờ sông Bến Váng ra phía bắc.  Một số ít gia đình làm nhà lùi xa quốc lộ hơn về hướng tây, thường núp trong những khóm dương liễu hay lùm tre để tránh bớt nóng bức của mùa hè. Nhưng  đâu đâu cũng toàn là cát trắng. Người địa phương duy nhất sống lẫn lộn với những người du cư là ông Năm Vinh, chủ một lò rèn nhỏ nằm vào khoảng giữa của dãy nhà sát lộ về phía biển, cách nhà Trang và Sỹ khoảng chục căn.  Hình như lò rèn nầy đã có ở đó trước khi những người du cư đến đây. Ông ta nổi tiếng đánh vợ. Mỗi khi ông làm thế không một ai can thiệp.  Ông không hòa thuận mấy với những người hang xóm nên họ không buồn lên tiếng vì sợ làm cho tình hình xấu hơn.

 

Đa số nhà cửa của họ lợp bằng tranh, vách tre hoặc lá dừa nước với nền nhà làm bằng bùn nước mặn, nện phẳng rồi để khô. Cửa chính làm bằng một vách lá hình chữ nhật hoặc hình vuông với cạnh trên được buộc vào một cây xà ngang mái nhà ở mặt tiền.  Người ta mở cửa bằng cách đẩy cạnh dưới của tấm vách lá lên rồi dùng một cây tre chống cho cửa đứng. Muốn đóng cửa, người ta chỉ cần lấy cây chống đi và cho hạ cửa xuống.

 

Vào một ngày nào đó với thời tiết bình thường, cửa không được chống lên tại một căn nhà nào đó có nghĩa là đoạn đường du mục của những người không may mắn trong căn nhà đó coi như đã chấm dứt. Sẽ không còn những ưu tư về thời tiết của từng mùa đi qua trong năm. Sẽ không còn bận tâm về những làn đạn chẻ dọc mái tranh từ máy bay oanh tạc của Pháp hay biển lửa từ những quả bom napan. Cánh cửa lá không còn mở lên sẽ là dấu hiệu của nắp quan tài đã đóng lại. Thông thường trong một nền văn minh tiêu chuẩn, cửa cái của một căn nhà được gắn bằng bản lề vào một khung hình chữ nhật đứng thẳng. Cửa có thể hai cánh hay một cánh nhưng luôn luôn mở ra và đóng lại theo chiều ngang để có được không gian một trăm tám mươi độ về phía trước, tạo ra một thế giới ba chiều rõ rệt.  Cửa lá của đám du cư nầy chỉ có một cánh và mở ra theo chiều đứng từ dưới lên trên, không bao giờ có được một góc lớn hơn chín mươi độ nên chỉ thấy được không gian gần như hai chiều, loại không gian thuộc thế giới phẳng Flatland trong truyện của Abbott. Chiến tranh đã đẩy họ đi lùi một hoặc nhiều bước tiến hóa. So với vũ trụ ba chiều thì họ đã thu nhỏ một phần hiện hữu để thích ứng với sinh tồn và đối phó với sự thù nghịch của những sinh vật đang sống trong những vũ trụ có hơn hai chiều. Một cách vô thức họ đã đi theo bản năng sinh tồn và từng bước tháo gở hành trang trên đoạn đường du mục, thu hẹp không gian vật lý và tinh thần, thản nhiên bỏ lại sau lưng những mất mát như con tàu tự ý đánh rơi hành lý khi phải vượt một chiếc cầu sắp đổ. Cũng rất may là họ không nhìn được chiều thứ ba; đó là chiều tham vọng của những nền văn minh đang từng ngày muốn tiêu diệt họ.

 

Quanh năm họ trồng rau muống, ớt, cà tìm, rau lang, mía... phần lớn được bón bằng bánh dầu ngâm nước tiểu, và có khi cả phân người để khô rải rác rất nhiều bên kia đường rầy xe lửa. Gần đến mùa xuân họ bắt đầu trồng cà chua và bí rợ. Một số đem những sản phẩm trồng được ra phiên chợ chồm hổm để bày bán vào buổi chiều bên cạnh những món hàng của nhiều người địa phương. Đám du cư có thể đến chợ nầy để mua cám heo, thóc, gà vịt, trứng, khế, giá sống, rau quả v.v.  Nhưng sinh nhai chính của họ là những nghề cổ truyền như dệt vải và nhuộm vải bằng thuốc đá. Thị trường của họ là những bạn hàng từ trong Quảng Ngải ra mua. Vì lượng vải sản xuất tại chỗ quá ít, không đủ cung ứng cho thị trường nên thường xuyên họ phải dùng xe đạp ra tận Hà Lam ở Thăng Bình để mua vải trắng chở về để bán lại hoặc nhuộm hay hồ trước khi bán. Nhuộm chủ yếu chỉ có bốn màu nâu, xám lợt, xám đậm và đen. Đối với vải trắng và sọc rằn, họ mua về và hồ hay phiếu cho cứng và thẳng trước khi bán. Những mặt hàng nhuộm và hồ phiếu được khách hàng ưa chuộng nhất có mang nhản hiệu "Phi Mã" của gia đình Trương Huynh sống trong một khu bãi cát cách quốc lộ một khoảng 500 thước về phía tây. "Trương Huynh" tượng trưng cho hai anh em ruột Trương Bằng, người anh, và Trương Liệu, người em.  (Cả hai đều vào Nam lập nghiệp tại Gò Vấp sau ngày đình chiến.  Họ tiếp tục thành công với nghề dệt vải.)

 

Các thương vụ mua bán đều thông qua tiền tín phiếu, vì Việt Minh không cho dùng tiền Bảo Đại.  Tình trạng kinh tế sau 1952 tỏ ra khả quan hơn trước; nhiều người khấm khá. Vì đồng tín phiếu mất giá quá nhiều so với đồng Bảo Đại, họ phải chở tiền bằng những bao tời lớn để đi mua hàng; trọng lượng tiền mang đi đôi khi gần tương đương với trọng lượng hàng mua về. Dó đó lượt đi và lượt về đều nặng nhọc như nhau.

 

Nhờ có tiền nên họ mua được những chiếc xe đạp tốt từ các tay buôn lậu đưa hàng của Pháp từ Đà Nẳng vào, trong đó có thuốc tây, vải sơn đầm và nhất là xe đạp hiệu Sainte Étienne  cùng  với những phụ tùng tốt như đèn trước và đèn sau xe đạp, vỏ xe ngoại của Pháp v.v... Họ cần cả xe đạp tốt, vỏ ruột xe tốt, và đèn trước tốt vì họ thường đi vào ban đêm để tránh bị máy bay Pháp bắn chết. Cũng có khi họ di chuyển ban ngày nếu nắm vững chu trình đi và về của các máy bay oanh tạc của Pháp. Thường người ta không sợ mấy chuyến đi của những máy bay nầy cất cánh từ sân bay Đà Nẳng, vì chúng chỉ đến những mục tiêu đã định sẵn ở các vùng xa phía nam như Quảng Ngải hay Bình Định, không bắn phá dọc đường vì lượng bom lớn còn đang mang trên máy bay. Sau khi thực hiện mục tiêu chính xong, nghĩa đã trút hết số bom mang đi, những máy bay khu trục nầy bay trở về Đà Nẳng và chúng bay rất thấp dọc theo quốc lộ một để những người di chuyển trên đường không phát hiện kịp thời để ẩn núp và bỏ mạng vì làn đạn oan nghiệt của các tay phi công giết người. Do đó phải đoán giờ trở về của những máy bay khu trục nầy và dừng lại kịp thời để chờ cho đến khi chúng bay qua rồi mới di chuyển trở lại.

 

Tuy nhiên, đó là qui trình có thể tiên liệu được của loại khu trục bay thành toán hai hay ba chiếc trở lên. Loại "khu trục một" không theo qui luật đó.  Máy may oanh tạc nầy chỉ bay một mình, cũng có mục tiêu chính định sẵn, nhưng khi bay đi nó bay rất thấp và bay xa ngoài biển để trong đất liền không ai hay biết lượt đi của đó và do đó không hay biết  giờ giấc nó bay trở về.  Rất nhiều người đi xe đạp bị nó bắn chết từ phía sau, đầu rơi xuống đất mà xe và người vẫn còn tiếp chạy trên đường một lúc trước khi tất cả ngả xuống lề đường.  Đó là trường hợp của Hà, cháu gọi ông Ba Dung bằng chú ruột. Hà bấy giờ chở hàng vào bán ở Châu Ổ và bị bắn chết trên dường trở về Vân Khương. Hà chết lúc chưa đầy hai mươi tuổi. Nơi anh bị bắn chết là khu vực về sau trở thành căn cứ Chu Lai của Mỹ. Bà Bảy Nguyện xóm trên bị máy bay nầy bắn đổ ruột chết ngay trước miệng hầm. Thông thường những hầm trú ẩn được đào khá xa nhà, và nằm sát đường rầy xe lửa phía sau nhà.  Sở dĩ phải đào xa nhà vì sợ rằng, nếu nhà bị máy bay bắn cháy, thì mọi người trong hầm sẽ chết vì lửa.  Nhưng đó cũng là một nhược điểm, vì có thể không đủ thời gian chạy và kịp chui vào hầm trước khi máy bay đến, nhất là những máy bay bay thấp.

 

Một ngoại lệ nguy hiểm thứ hai là chiếc "máy bay năm đầu". Người ta truyền miệng với nhau rằng viên phi công người Pháp của chiếc máy bay năm động cơ nầy cất cánh từ Phi Trường Đà Nẳng mỗi sáng sau khi ăn điểm tâm và uống rượu thật say. Có lẽ nhờ thế mà hắn giết người dửng dưng không thương tiếc. Chiếc máy bay màu đen hung tợn nầy luôn luôn bay thấp và bắn phá lượt đi lẫn lượt về. Nó được trang bị đủ loại súng máy và chỉa ra đủ mọi hướng nên thân hình của nó trông rất là gai gốc và nó có thể bắn ở mọi góc độ nên ngay cả những người núp dưới hầm trú ẩn không có mái che đều có thể làm mồi cho nó. Đa số những người bị máy bay bắn chết đều là thường dân, vì không ai thấy bộ đội hay dân quân xuất hiện ở những vùng nầy, chỉ toàn công an.  Khi Pháp đi càn thì mạnh ai nấy chạy, chẳng có lực lượng nào dám ở lại chống cự. Thậm chí máy bay rà sát trên đầu cũng không ai dám bắn một viên đạn.

 

Di chuyển bằng xe đạp ban đêm với hàng hóa và tiền bạc như thế lý ra là mục tiêu dễ dàng của bọn đạo tặc.  Điều ngạc nhiên là suốt bao nhiêu năm cho đến ngày đình chiến ít ai nghe nói đến trộm cướp hay những tội ác khác trong toàn vùng sơ tán. Không ai nghe nói đến chuyện họ giết nhau vì tiền hay vì lòng tham.  Cửa có đóng xuống về đêm nhưng không bao giờ khóa, vì thực ra họ muốn khóa cũng không biết khóa bằng cách nào với những tấm cửa lá thô sơ như của người tiền sử.  Không ai rõ hiện tượng hiếm hoi nầy là tự phát hay bắt nguồn từ ý thức đau khổ chung vì chiến cuộc với cường độ lớn lao hầu như tuyệt đối, một loại ý thức phần nào siêu thực không thể giải thích bằng một loại xã hội học, đạo đức học, hay tâm lý học thông thường nào được. Rất có thể trước lưởi hái tử thần đe dọa ngày đêm, con người bỗng quên đi bản ngả của mình và nhận diện được tha nhân trong cái thiện cố hữu từ bản chất, quên đi cái ác cũng cố hữu từ bản chất, cùng đứng về một bên đối diện với cái ác của những kẻ ngày đêm bắn giết họ, cùng hòa đồng với nhau theo bản năng sinh tồn, một cách ý thức hay vô thức. Có thể thực thể đầy nhân tính đó sẽ là một trong những thứ hành trang vô giá cho con cháu họ mang theo khi bước vào thế giới hung bạo sau nầy. 

 

Tuy nhiên, không thể xem hiện tượng nhân bản hiếm hoi đó như là một điểm son của chính quyền Việt Minh thời đó được; vì thực ra một hệ thống chính trị, dù tốt đẹp hay ngược lại hà khắc đến đâu đi nữa, cũng không thể thuyết phục hay ra lệnh cho con người hướng thiện và sống thiện được, đôi khi ngược lại thì có. Thực tế, xã hội của con người Quảng Nam của thời kỳ đó và tại khu vực đó không xa mấy với một xã hội không tưởng mang tính thiên đường, loại thiên đường sản sinh từ hỏa ngục chiến tranh. Thiên đường đó không thấy có trong nền cộng hòa giả tưởng của Platon, trong các lãnh địa không tưởng của Thomas More, trong Khu Thịnh Vượng Chung của Thomas Hobbes, trong Thiên Đường Công Nhân của Karl Marx; và bây giờ nó hoàn toàn xa lạ với những chế độ chính trị tự xưng là xã hội chủ nghĩa. Họ sống thiện không phải vì họ là những người cộng sản hay cảm tình gì với chủ nghĩa cộng sản, vì thời đó ít ai nhận thức được chủ nghĩa cộng sản là gì. Thực ra, đa số những người trong cộng đồng người tản cư đều chán ghét bộ máy hành chánh công an trị của địa phương.  Họ bị bủa vây bởi bốn tay công an. Phía tây nam có tên Ba Giáo, nhà ở sát ven sông, cách quốc lộ khoảng một cây số. Phía tây bắc có tên Hai Nhì; và phía đông bắc có Nguyễn Nam, là tay công an kỳ cựu nhất. Cả ba tên đều là người địa phương, do chính quyền địa phương sắp đặt để cai quản đám dân du cư.  Riêng phía đông nam thì bỏ trống.  Thay vì thế, ngay trong lòng cộng đồng của họ có tay Tri Ba Xảo, một tay vừa thu thuế ,vừa đảm trách vai trò công an để giám sát đời tư của mỗi gia đình. Tri Ba Xảo nguyên quán ở Điện Bàn, Quảng Nam, đã lưu lạc nhiều nơi trước khi đến đây với vợ và hai con. Hắn thường đến "thăm" các gia đình tản cư vào giờ ăn, ngày giỗ. Người ta biết phải làm gì khi thấy hắn xuất hiện vào giờ ăn hay sắp sửa ăn.  Nhưng việc thù tiếp dù chu đáo đến đâu cũng không tránh khỏi sự xoi mói của hắn nếu quả thực cơm nấu mà không có ghế khoai hay sắn hoặc có thịt cá tương đối hơi nhiều. Người ta cũng rất sợ vì những chuyện nầy mà sẽ bị bị mang ra "phê bình kiểm thảo" trước công chúng, sợ rồi đây mức thuế đóng sẽ bị tăng lên.

 

Ba Giáo và Tri Ba Xảo khá khôn ngoan nên sau khi hiệp Định Genève được ký kết hai tên này vào Đập Đá thuộc tỉnh Bình Định để tập kết ra Bắc. Không ai rõ số phận của Hai Nhì. Riêng tên Nguyễn Nam không đi tập kết, và mấy ngày đầu sau khi đình chiến hắn còn xuất hiện huyênh hoang trấn an rằng hai năm nữa sẽ có tổng tuyển cử để thống nhất đất nước, không cần phải đi đâu cả. Chẳng bao lâu sau đó, người ta thấy xác của hắn nổi trên sông Bến Váng, tay chân bị trói ké.  Thì ra hắn bị đám mật vụ của chế độ Ngô Đình Diệm bắt đi vào ban đêm và thanh toán để trả thù sau khi tra tấn dã man. Trong khoảng thời gian đó, về đêm, người ta thường nghe những tiếng hét, rú, rên la vì tra tấn trong khu rừng nhỏ nằm sát tuyến đường rầy về phía tây quốc lộ một và phía nam của sông Bến Váng. Chuyện giết người thả sông xảy ra hầu như hằng ngày.

 

Tình cảm giữa những gia đình tản cư có vẻ gia tăng hơn sau những thiên tai như trận bão lửa vừa rồi.  Họ bắt đầu thân thiết với nhau hơn và bắt đầu tìm hiểu về nhau hơn, nhất là giữa những gia đình vắng mặt người đàn ông, hay đúng hơn những gia đình "mẹ góa" con côi.  Trong số nầy có Trang, mẹ của Lộc và Oanh, mẹ của Dũng. Trang và Oanh gần bằng tuổi nhau, nghĩa là khoảng ngoài ba mươi. Lộc và Dũng cả hai khoảng 7 hoặc tám tuổi. Thực ra Trang và Oanh không "góa chồng" như một số người trong xóm nghĩ. Trang cùng con và chồng là Sỹ đều gốc ở làng Đông Yên thuộc huyện Duy Xuyên của tỉnh Quảng Nam và rời làng giữa năm 1945, tản cư về phía Đèo Cây Trao, lưu lạc và trôi dạt khắp miền núi, có lúc đến tận vùng thung lũng và núi cấm như Bình Huề, Tiên Phước. Sau đó họ di chuyển vào Châu Ổ, thuộc tỉnh Quảng Ngải. Trước đây khoảng hai năm, tức năm 1950, Sỹ đã quyết định rời Châu Ổ, như một ước muốn hồi cư, hay ít nhất di chuyển về gần hơn với Duy Xuyên hay Vĩnh Điện để đỡ nhớ quê. Nhưng Sỹ chỉ có thể đi được đến đây, đứt khoát không về thành. Trước đây nhiều người đã chết hoặc bị Pháp bỏ tù khi toan về lại Hội An hay Đà Nẳng, vì mật vụ Pháp xem những người từ "vùng tự do" đột nhập vào thành là Việt Minh. "Vùng tự do" là nhóm chữ ám chỉ những khu vực do Việt Minh kiểm soát, trái với "vụng tạm chiếm", tức là những khu vực do Pháp kiểm soát, trong đó có Đà Nẳng và Hội An.

 

Cũng vào khoảng cuối năm 1950, Oanh cùng con và chồng là Bài đã rời An Thường thuộc tỉnh Bình Định để về đây. Họ cất được một căn nhà tranh ở sát đầm Ông Cứ, sát với cầu An Tân. Nhà núp dưới một khóm tre ở phía sau và phía trước bên kia đường là một hàng cây bã đậu đã lên khá cao nên có được nhiều bóng mát vào buổi chiều. Khu Oanh và Bài ở chỉ có khoảng bốn hoặc năm gia đình, tương đối cách biệt với trung tâm cộng đồng vốn nằm khoảng nửa cây số về phía bắc. Ít ai làm nhà hai bên đường ở đoạn giữa nầy vì đó là vùng trồng lúa của ông Cứ, một địa chủ người địa phương. Mỗi chiều Oanh thường lên chợ chồm hổm để mua thức ăn và rau trái, và cũng tại chợ nầy Oanh và Trang quen thân nhau. Mỗi khi đi chợ Oanh hay ghé vào nhà Trang để chuyện trò, vì nhà Trang ở ngay khu họp chợ. Cả Trang và Oanh đều sống bằng nghề đánh ống thủ công. Họ đến các nhà có khung cửi dệt vải để nhận vải chẻ đem về và dùng xa quay thủ công để cuốn vải chẻ vào ống.  Vải chẻ là dạng vải sợi đã được cuộn tròn thành xấp có đường kính khoảng nửa thước, bề rộng khoảng một tấc và bề dày khoảng một lóng tay. Sợi vải được cuộn chồng lên nhau theo hình zích-zắc. Công việc của Trang và Oanh là chuyển sợi vải từ những chẻ vải nầy thành những búp chỉ hình nón với nòng bằng ống tre dài khoảng hai tấc.  Sỹ và Bài đã tự tay làm lấy những xa quay chỉ thủ công cho vợ họ. Tất cả đều bằng gỗ, tre và mây.  Cũng có khi Trang và Oanh đi suốt mướn nếu không có chỉ để đánh ống. Suốt tức là dùng máy thủ công để chuyển sợi từ các búp chỉ vừa nói trên sang những ống chỉ nhỏ hơn với lỏi bằng lóng của những nhánh trúc dài khoảng hai hoặc ba phân, đường kính độ vài ly. Thợ dệt sẽ dùng những suốt chỉ nầy bỏ vào thoi dệt. Đôi khi họ phải đi đến nhiều nhà trong một ngày để làm dịch vụ làm mướn nầy để có thu nhập khá hơn.

 

Trong thời gian từ 1950 đến đầu năm 1952, Sỹ và Bài thường gặp nhau vào buổi chiều trên sân bóng chuyền gần trường học ở cuối xóm. Có khi có đủ người để chơi hai bên, có khi không đủ, nhưng có bao nhiêu thì chia đều ra chơi bấy nhiêu. Trong số những thanh thiếu niên đến chơi bóng có Vệ, Hộ, Đợi, Phan Nhi, Lương Châu, Lê Liên, Chuân, Thiết, Trí, Thống.. Đa số họ hiện diện trong cộng đồng đơn thuần như những người chạy giặc, không hề có một ý thức chính trị gì cả. Trong đám họ chỉ có Lương Châu và Lê Liên đã tham gia kháng chiến từ trước năm 1945, thỉnh thoảng về Vân Khương thăm gia đình rồi đi công tác trở lại.  Sau đợt biên chế năm 1950 Châu và Liên rút lui hẳn về đời sống dân chính, đi buôn kiếm sống. Lúc đầu Châu đi buôn mắm cùng với Lê Liên.  Sau đó, cùng với Phan Nhi, Châu đi buôn thuốc tây, vải ngoại, và dép râu bằng xe đạp.  Họ ra vùng giáp ranh Đà Nẳng hoặc Vĩnh Điện mua hàng và đưa hàng sâu vào Quảng Ngải để bán. Khoảng một năm sau Châu lập gia đình với người chị cả của Lê Liên, sinh được hai đứa con gái. Đứa thứ ba là con trai, nhưng mới sinh được mấy ngày thì vợ Châu chết bỏ lại ba con cho bà nội nuôi. Vì mồ côi mẹ từ lúc mới lọt lòng nên ông bà nội đã đặt tên cho nó là Côi. Đứa bé trai  chết theo mẹ không lâu sau đó. Sau ngày đình chiến, Lê Liên theo gia đình về lại Điện Bàn, đi lính quốc gia và chết trận tại Quế Sơn mấy năm sau đó. Lương Châu và Phan Nhi thuộc số giàu có nhất sau khi vào Sài Gòn lập nghiệp vào năm 1954 khi Hiệp Định Genève ký kết.  Trước năm 1954, số thanh niên còn lại không ai đi bộ đội, không gia nhập dân quân, không làm cán bộ, công an, hay nhân viên hành chánh.  Tóm lại, họ không tham gia vào guồng máy hành chánh của địa phương cũng như công cuộc kháng chiến của Liên Khu Năm. 

 

Sỹ và Bài không chơi thân với họ. Và sau một thời gian gặp gỡ ngắn ngủi đó, không chắc ai trong đám họ còn nhớ Sỹ và Bài là ai. Có lẽ do sự đồng cảm nên hai người dần dần quen biết nhau hơn, và câu chuyện đi săn mặt trời cũng bắt đầu từ đó. Họ thường không nói chuyện gì nhiều tại sân bóng chuyền nếu có đông người. Những lúc vắng họ thường trở lại với những mẩu đối thoại xa xôi mơ hồ, đôi khi không cần biết kể đối thoại với mình là ai.

 

Có lần Sỹ nói với Bài:

- Cậu nghĩ sao? Nếu cứ tiếp tục sống mãi như thế nầy? Vô lẽ cứ phải trốn chạy?  Trốn chạy đến bao giờ? Và trốn chạy thì ít nhất phải biết mình trốn chạy để đi tìm một cái gì chứ?  Vô lẽ lại trốn chạy một cách vô vọng thế nầy?

- Nhưng làm sao tìm được hy vọng trong một thế giới không có mặt trời?

- Hy vọng đây không có nghĩa là chọn cái xấu ít hơn trong hai cái xấu.

- Trong hoàn cảnh bây giờ, nỗi đau khổ quả thực vô biên từ hai phía. Cậu đồng ý với tôi không?

- Thế giới chúng ta đang sống là thế giới vật lý với trái đất tròn và mặt trời ở cách xa chúng ta, xa ngoài tầm tay với, phát ra những thứ ánh sáng mà mọi người đều cần để tồn tại. Nhưng loại mặt trời đó không phải là loại mặt trời chúng ta cần. Mặt trời đó lãnh đạm và thản nhiên trước những thảm kịch của con người, nó có vẻ chấp nhận cả cái xấu lẫn cái tốt; nhưng điều ác thì quá nhiều so với điều thiện. Mặt trời đó nhìn thế giới chúng ta đang sống như một ngẫu nhiên tuyệt đối. Và thế giới mà chúng ta sống đang bị ngự trị bởi bọn ác từ mọi phía và hầu như ở khắp mọi nơi. Mặt trời của chúng ta đang đồng lõa với bọn ác.  Mặt trời mà chúng ta cần không thấy có nên chúng ta phải đi tìm, và tìm bên ngoài cuộc chiến nầy, bên ngoài hai chiến lũy. Đó chính là hành trình đi săn mặt trời đấy bạn. Đừng nghĩ rằng phải có cái mình cần tìm thì mới đi tìm. Cần cái gì thì đi tìm cái đó, không cần biết cái đó có hay  không. Đi tìm thì sẽ có. Không đi thì không bao giờ đến. Đó là lời ông nội của tôi nói với cha tôi.

- Con người là thực thể của cả thiện lẫn ác.  Nếu thiện không thôi thì đâu còn là người và cũng không thể được vì bấy giờ bản chất con người sẽ mất đi một vế hay một yếu tính. Nếu con người cố tình chối bỏ bản tính ác và xấu của mình thì hãy còn sự hiện diện thể xác của họ đứng làm nhân chứng cho tiềm năng của mọi điều xấu và điều ác vốn suốt đời đi theo họ đấy. Những loại quần áo, trang sức, hia mảo mà họ mang trên mình chỉ để giúp họ phân biệt với nhau về giới tính, văn hóa, chủng tộc, nghề nghiệp, địa vị xã hội, giai cấp xã hội, thống trị, bị trị...Chúng giúp họ trang điểm, ngụy trang, khống chế hay che giấu phần nào thể xác sinh học của họ.  Đôi khi họ xử dụng y phục để che kín toàn thân như một loại gông cùm nhằm trói buộc con ác quỉ của chính họ, kín chừng nào hay chừng đó. Một số nền văn minh khác lại có khuynh hướng nới lỏng nó ra hoặc xử dụng trang phục văn minh hơn để ngụy trang hay tô điểm con thú đó khiến nó dễ được chấp nhận hơn. Nhưng tựu trung trang phục không thay đổi được bản chất của con thú tiềm ẩn bên trong, với nguyên vẹn những thành tố động vật học. Bao lâu còn những thành tố động vật học đó bên trong con thú đó thì không thể giải quyết điều ác trong thế giới con người. Tiến hóa đã giúp họ biết tự ngụy trang mình, đưa phần tri thức của họ mỗi ngày một cao xa hơn, nhưng không thể giúp họ đoạn tuyệt được với con ác quỉ bên trong chính họ. Phần tri thức phát triển càng cao thì những tham vọng và đòi hỏi của con ác quỉ đó càng lớn. Đó là lý do tại sao con người càng mạnh, càng tiến bộ thì càng độc ác hơn. Ác quỉ càng lớn thì những trang phục dùng cho nó sẽ càng đắt giá hơn.

- Đúng vậy. Nhưng con người trước tiên là thể xác; không thể giải quyết thể xác mà không giải quyết chính cái yếu tính của con người. Hơn nữa nếu chỉ dùng cái thiện mà đối phó với một thế giới đầy tội ác thì chẳng khác nào lấy trứng chọi đá. Nhưng ngược lại ác không thôi cũng không thể được vì thông thường nếu ngay từ đầu con người xuất hiện như một kẻ ác thì sẽ bị xã hội tiêu diệt theo bản năng tự vệ và sinh tồn. Do đó thiện thường là điều kiện cần và đủ để đi đến cái ác hoặc để che giấu cái ác, theo nghĩa rộng cũng như theo nghĩa hẹp. Con người dễ đồng lỏa với ác quỉ thuộc phạm trù nầy. Muốn ác thì phải mạnh, về theo nghĩa vật lý hay tài chánh, càng mạnh thì càng ác. Nếu con người chưa đủ ác thì đó chỉ vì họ chưa đủ mạnh; một khi đủ mạnh rồi thì không còn ai có thể ngăn cản họ làm điều ác. Bớt ác có nghĩa là không còn đủ mạnh.

- Mặt trời chung qui cũng chỉ là một chứng nhân toàn hảo, không đứng về phía thiện cũng không đứng về phía ác. Đó mới là điều đáng nổi loạn.

 

Thời đó máy bay Pháp thường xuyên dội bom thường, bom napan và bắn phá các trường học. Học sinh lớp một và lớp hai theo học tại một trường nhỏ trên ấp Vân Long đầu xóm phía bắc. Trường nầy tương đối không bị dời đổi trong suốt thời gian du cư. Học sinh từ lớp ba đến lớp năm, tức là những lớp của Lộc và Dũng, theo các trường ở xa hơn. Những học sinh từ lớp sáu trở nên, tức bậc trung học, nếu muốn tiếp tục học thì phải vào trường Lê Khiết ở Quảng Ngải.  Không trường học nào ở yên trên ba tháng, phải dời chỗ liên tục, hết núp dưới chân đồi đến chui vào rừng tre, rừng mù u; hết đồng bằng đến non xanh... Trường bị ném bom napan đầu tiên nằm trên lưng đồi phía tây của dốc Hố Giang, một con đồi nhỏ nằm cách Chợ Trạm vài trăm mét về phía núi. Rất may lúc đó không có lớp. Sau đó trường dời qua một địa điểm phía tay trái gần đó, cạnh đồng lúa.  Vì thấy vị trí nầy hơi trống trải và cũng dễ bị thương tổn nên các lớp học chỉ được tổ chức vào ban đêm bằng đèn cầy hoặc bằng đèn dầu lửa. Tuy nhiên học sinh vẫn phải đào hầm trú ẩn cá nhân và giao thông hào chung để phòng hờ máy bay oanh tạc. Học sinh thường đi đến trường bằng đuốc rơm. Quả nhiên chưa đến một tháng sau thì trường đã bị ném bom vào ban ngày và tan nát hết. Không có thương vong vì lúc đó không có lớp ngày. Một lần nữa trường lại dời lên sâu hơn về phía rừng chồi, trong một đình làng cũ có nhiều cây cổ thụ cao và cây mù u.  Học sinh lại đào hầm tiếp. Sau đó chính quyền địa phương cho biết địa điểm của trường có thể đã bị lộ vì bọn gián điệp. Thế là trường phải dời đi một lần nữa. Cứ mỗi lần như thế trường lại dời đi xa hơn vào chân núi Trường Sơn.  Chỉ đến khi trường chuyển hẳn lên trên núi cao ở Xuân Vinh thì Trang và Oanh mới thôi đưa con đi học, vì quá xa nên cứ để cho Lộc và Dũng đi với đám trẻ trong xóm.  Nhưng mỗi khi nghe máy bay đánh bom đâu đó thì Trang và Oanh lại tất bật lặn lội đến trường để biết số phận con mình. 

 

Trường ở tận trên núi; nhưng trước khi đến được núi phải đi bộ một đoạn đường khá dài trên quốc lộ một, sau đó vượt qua mấy cây số đồng trống.  Chặng đầu tiên là đoạn trên quốc lộ một, từ nhà đến Chợ Trạm, dài khoảng một cây số và là đoạn nguy hiểm nhất nếu đi vào ban ngày, vì hai bên đường chỉ có cát trắng, không cây cối và không nhà cửa. Hai bên đường thỉnh thoảng có hai mương cạn và dọc theo hai mương nầy là những hàng gai long. Hai mương nầy chỉ có nước vào những ngày mưa lụt lớn mà thôi; sau đó nước rút đi nhanh vì đó là vùng cát trắng.  Từ một phi cơ oanh tạc bay thấp như thường ngày, một con kiến cũng có thể thấy được trong khoảng đường trống đó. Nếu không có chỗ trú ẩn thì chỉ chịu chết trước mủi súng máy bay. Trong mấy năm qua, rất nhiều người bị bắn chết trên đoạn đường nầy, có người nằm chết ngay trên mặt lộ, có người nằm chết dưới mương nước hai bên đường cạnh hàng gai long, có người chết trên bãi cát xa hơn bên trong khi toan chạy vào các lùm cây gần đường.  Xác người, xe đạp, gồng gánh, quần áo bị bắn nát và vung vải tứ tung.

 

Trên đọan đường nầy, lũ trẻ đã xác định một số vị trí có thể trú ẩn nếu nghe tiếng máy bay đến.  Chẳng hạn, chúng có một lùm cây dương liễu nằm cách lộ khỏang vài trăm mét về hướng tây. Lùm cây dương liểu nầy không rậm lắm nhưng cũng có thể che mắt được máy bay nếu các đứa trẻ phát hiện sớm và chạy vào đây trước khi máy bay đến gần.  Chỗ trú ẩn thứ hai là một đường mương nước cắt ngang quốc lộ gần khu nhà ở Chợ Trạm.  Mương nước nầy vốn là một ống cống lớn để cho nước mưa từ miền trên băng qua lộ và thoát về con sông nước mặn gần cửa Trùng Khơi ở phía biển. Ống cống đã bị phá hỏng và chừa lại một mương khá sâu với hai thành cát để cho lũ trẻ có thể núp may bay. Trẻ con các gia đình du cư ở Vân Khương thường bắt đầu đi học từ sáng sớm, vì nghĩ rằng đám phi công của những máy bay khu trục và năm đầu chỉ cho máy bay cất cách sau khi đã ăn uống no say ở phi trường Đà Nẳng; khi họ bắt đầu thực hiện các phi vụ giết người thì đám trẻ con có thể đã vượt hết đoạn đường trống trải và nguy hiểm. Nhưng vẫn có những trường hợp ngoại lệ ... bất ngờ. Cho nên vào những ngày con đi học, cũng như mọi bậc cha mẹ khác, Trang và Oanh cứ thấp thỏm từng phút, tự hỏi bây giờ con mình đã đi được đến đâu, đã qua khỏi đường mương ống cống chưa.

 

Một hôm, lũ trẻ hơn mười đứa bắt đầu đi đến trường vào sáng sớm như thường lệ.  Chúng vẫn nhởn nha như thường ngày và vừa mới đi hơn nửa đoạn đường thứ nhất và gần đến mương ống cống thì chúng nghe tiếng máy bay ngay sau lưng. Khi nhìn lại phía sau chúng thấy chiếc máy bay năm đầu đã lù bay sát tới, hầu như ở ngay trên đầu rồi. Theo bản năng, chúng vứt hết tập vở và phóng đến bờ mương cống, nhưng chưa chạy đến bờ mương thì chiếc máy bay hung tợn kia đã bay qua rồi, nhưng .... không nhả một phát đạn! Nếu chủ tâm bắn thì nó đã bắn chết hết lũ trẻ trước khi chúng chạy đến nơi trú ẩn. Vã lại nếu nó không bắn kịp ở phía trước thì nó có thể bắn từ phía sau, vì cái máy giết người nầy có đủ hướng tác xạ. Nếu cảm thấy chưa đủ nó có thể vòng lại để bắn tiếp những mục tiêu đã thấy.  Mục tiêu đó là một đàn trẻ con hơn mười đứa phơi mình trên một vùng cát trắng trống trải hoàn toàn không được ai hoặc cái gì che chở cả. Đó là bầy chim non vô ưu bay trong trời đầy gian nguy bão tố. Viên phi công chắc chắn không những đã nhìn thấy chúng mà còn có thể đếm được chúng bao nhiều đứa, đang mang theo những gì...kể cả vầng hào quang thiên thần thơ dại đang tỏa lên từ những chiếc nón lá chúng đang đội trên đầu, từ những bộ quần áo vải ta rách nát hay bạc màu mà cha mẹ chúng đã may bằng tay và vá cũng bằng tay.

 

Máy bay Pháp thường xuyên oanh tạc các trường học có nghĩa là những phi công Pháp không thương xót gì đám trẻ con du cư. Hơn nữa, viên phi công của chiếc máy bay năm đầu nầy nổi tiếng là tên giết người không gớm tay và thực ra hắn đã giết rất nhiều người vô tội. Và để giết người nhẹ nhàng thỏai mái hơn hắn thường uống nhiều rượu cho thật say trước khi cất cánh. Nhưng hôm nay... tại sao hắn không nhả đạn, phía trước cũng như phía sau?

 

Ngày hôm đó, sau khi con mình đi mới một lúc thôi thì đã thấy máy bay năm đầu bay ra như thế, Trang và Oanh hoảng hốt và vội vàng lấy mỗi người một chiếc xe đạp để chạy về hướng con đi học xem sao. Khi gần đến mương cống nước họ nhìn thấy vài cuốn tập vở rơi lại trên nổng cát bên đường.  Trang và Oanh dừng xe và nhặt hết mấy cuốn tập lên.  Bên ngoài mỗi cuốn tập có một cái nhản hình chữ nhật ở góc trái trên ghi tên trường, lớp và tên học sinh. Trong số những cuốn tập đó không có tên của Dũng và Lộc. Trang bỏ mấy cuốn tập vào giỏ trước của xe đạp và cùng với Oanh tiếp tục lên đường. Bấy giờ đám trẻ đã bình yên đi khỏi Chợ Trạm vài trăm thước hướng về phía Tam Anh. Hai người bắt đầu nhìn thấy đám trẻ ở phía trước nên càng phóng nhanh hơn. Nói là phóng nhanh nhưng không thể nhanh lắm được.  Từ khi cuộc chiến bắt đầu, Việt Minh đã ra lệnh phá hoại cầu cống và đường sá. Trên quốc lộ một, cứ cách khoảng năm thước họ đào một hố sâu, bề ngang khoảng một thước và bề dài chiếm hơn nửa bề rộng của mặt đường; nếu hố nầy chiếm nửa mặt đường bên nầy thì hố kế tiếp theo chiếm nữa mặt đường bên kia, tạo thành hai chuỗi răng lược đâu xen kẻ vào nhau.  Do đó xe đạp không thể chạy theo một đường thẳng mà phải chạy ngoằn ngoèo zích-zắc theo nhình chữ "S" để khỏi sụp xuống hố, chạy từ trái sang phải rồi từ phải sang trái, cứ thế tiếp tục; dĩ nhiên là không thể chạy nhanh được.

 

Nhìn từ phía sau họ cũng nhận ngay được con mình. Trang và Oanh thay nhau gọi lớn:

- Lộc!

- Dũng!

Cả đám học trò quay mặt lại trong ngạc nhiên và ngỡ ngàng.  Chúng ngạc nhiên vì không thể nghĩ được hai người mẹ đó chạy đến đây để làm gì. Trang hỏi:

- Lúc chiếc máy bay đến chúng con ở đâu?

Lộc trả lời mẹ:

- Tụi con gần đến mương suối.

- Tụi con chạy kịp hả?

- Không kịp đâu mẹ ơi. Tụi con đâu biết là nó bay sớm như vậy.

- Nhưng nó không bắn à?

- Dạ không.

 

Trang trao lại mấy cuốn tập vở cho những đứa bị mất và sau đó hai người xuống xe dẫn bộ để cùng đi với đám trẻ cho đến khi chúng rời quốc lộ để đi vào khoảng đồng trống lên núi. Sau đó hai người quay về nhà và trong lòng nơm nớp lo sợ, vì giờ này mà đi xe đạp trên đường lộ thì quả là mạo hiểm. Về đến nhà Trang tự nói với mình, "Ít ra nó cũng đã tha mạng cho con mình."

 

Từ đó về sau, ngày ngày chiếc máy bay năm đầu vẫn xuất hiện, vẫn bắn giết và gieo rắc sợ hãi cho đám du cư, và có lẽ cũng vẫn với tay phi công già người Pháp nghiện rượu và nghiện máu người đó ngồi cầm lái; nhưng Trang đã nhìn nó với một cặp mắt khác. Georges Sand từng nói, "Le diable n'est pas si noir comme on pense." Đúng con ác quỉ không quá đen như người ta tưởng. Trong thế giới của con tàu đen hung tợn đó có lẽ vẫn có một góc nho nhỏ nào đó đủ rộng để nuôi dưởng được loài ánh sáng hiền hòa nhân đức như một vì sao rất nhạt nhòa nào đó trong cái vũ trụ âm u tăm tối. Nàng thầm cám ơn trời cao đã tạo ra loài ánh sáng đó hay vì sao nhạt nhòa đó, vì sao cứu tinh của con nàng.

 

Sau lần chiếc máy bay năm đầu tha mạng cho đám trẻ, nhà trường không để các học sinh đi theo quốc lộ một nữa. Tất nhiên, giải pháp thay thế nào cũng đắt giá cả. Lộc, Dũng và đám trẻ phải đi băng đồng vào ban đêm và ở lại trên núi học cho đến cuối tuần mới về. Do đó, khi đi cha mẹ chúng phải bới xách gạo hoặc sắn khoai và thức ăn cho con sống đủ năm ngày. Chỉ là một đám trẻ tiểu học chuẩn bị đến trường thôi mà phải hành trang chẳng khác gì một đoàn quân sắp sửa ra trận! Khi con ở nhà thì có sao ăn vậy, không thấy thiếu thốn mấy; nhưng khi chúng đi xa và phải bới xách là chuyện khác. Thiếu thốn bây giờ càng thiếu thốn hơn. Vì thương con nên Trang và Oanh không muốn để con mình thiếu đi miếng ăn so với bạn bè nên trong nhà có được thứ gì thì họ đều dành ưu tiên cho con mang đi. Cha mẹ của đám trẻ du cư bắt chước bộ đội nên cứ dồn thức ăn và gạo khoai vào ruột tượng cho con mang đi. Ruột tượng là một loại túi chứa hình ruột voi, may bằng những miếng vải ta thô đi theo hình xoắn ốc. Trước khi đưa thực phẩm vào người ta buộc chặt một đầu ruột tượng; khi xong chỉ cần buộc luôn đầu kia. Cả hai đầu đều chừa một khúc ruột thừa trống để buộc chúng vào nhau sau khi đeo lên người từ vai xéo xuống hông đối diện, một nửa chạy phía trước ngực, một nửa chạy phía sau lưng. Trang đi sang những nhà có máy dệt để mua vải "đầu đày" tức đoạn vải đầu tiên của cây vải đầu tiên trong trục canh với nhiều lỗi dệt nhạp và rất xấu nên rẻ tiền. Có người tốt bụng đã biếu không cho Trang.  Trang tự cắt lấy và may bằng tay. Khi may xong Trang mang sang nhà nào có lò nhuộm để xin nhuộm "ké" miễn phí, nghĩa là bỏ ruột tượng vào chảo nhuộm sau khi chủ lò đã vớt hết lô vải nhuộm của họ ra khỏi chảo và chừa lại số nước thuốc nhuộm thừa.

 

Từ xóm du cư đến trường học trên núi không có con đường nào hoàn toàn đi suốt trên đồng bằng, mà chỉ có một con đường bị một dòng sông cắt ra làm ba đoạn. Muốn đến trường, lũ trẻ phải vượt sông ở hai địa điểm khác nhau của cùng dòng sông đó. Tại điểm thứ nhất, cách nhà chúng khoảng một tiếng đi bộ, thường có đò ngang, nhưng muốn dùng đò phải trả tiền, nhất là vào giờ quá sớm trong đêm. Muốn đến kịp giờ học, đám trẻ phải đến điểm thứ nhất nầy vào khoảng ba giờ sáng. Vì tiền bạc không có nên chúng cởi áo quần bỏ vào nón lá cùng với thức ăn và sách vở, rồi bơi đứng qua sông; một tay bơi một tay cầm nón lá. Vào những ngày trời lạnh, sau khi qua được bên kia, chúng vội vàng mặc quần áo vào và chạy cho đỡ lạnh đồng thời để tranh thủ cho kịp giờ. Đi bộ khoảng hai tiếng thì đến điểm lội thứ hai.  Đây là điểm gần một con đập rộng.  Lý ra chúng có thể dùng bờ đê thì khỏi phải bơi qua khúc sông quá rộng nầy; nhưng không hiều vì lý do gì, con đập nầy đóng chặt ở hai đầu không cho ai qua lại. Do đó đám trẻ du cư lại phải lặp lại những thao tác như lần đầu ở điểm vượt sông thứ nhất. Sau khi qua sông, chúng đi thêm khoảng một tiếng nữa trên cánh đồng chồi thì đến lớp vừa tan sáng. Chúng sẽ được an toàn nhờ rừng núi che chở vào ban ngày. Nhưng ở đâu cũng có gián điệp của Pháp nên các lớp học có khi vẫn phải tổ chức vào ban đêm, vì ít khi máy bay Pháp đánh bom vào ban đêm. Đến chiều thứ sáu, lũ trẻ rời núi lúc mặt trời vừa lặn, đi khoảng một tiếng qua bình nguyên để đến điểm vượt sông gần con đập thượng nguồn, bơi qua sông, đi khoảng hai tiếng để vượt sông lần thứ hai, và về nhà khoảng nửa đêm. Cứ thế mỗi tuần đàn kiến lại từ đồng bằng vượt sông vào ban đêm để về nguồn tìm cho mình chút chữ nghĩa học hành rồi sau đó lại băng đồng vượt sông về lại đồng bằng cũng trong sự che chở của màn đêm. Trên lượt về, chúng thường đeo cái ruột tượng trống từ vai phải xéo xuống hông trái, ngược chiều với cách đeo ở lượt đi.  Đó có thể là một trò tinh nghịch, vì bên trong ruột tượng đâu còn gì để phải đeo.

 

Thực ra bảo rằng không có gì trong ruột tượng thì cũng không đúng lắm.  Có mang đi thì phải mang trở về một cái gì chứ, ít ra là chữ nghĩa mà chúng học ở trường?  Chữ nghĩa học ở trường gồm có toán, lịch sử, địa lý, khoa học thường thức, và... cuối cùng là tuyên truyền nhồi nhét.  Chúng đã từng được dạy rằng Liên Xô là đàn anh vĩ đại trong khối Việt Trung Xô. Cộng sản quốc tế sẽ tiêu diệt đế quốc Mỹ vì Liên Xô có "VŨ TRỤ TUYẾN" chống được bom nguyên tử của Mỹ; rồi đây ba nước Việt Miên Lào sẽ thành một khối bên cạnh khối Việt Trung Xô, và tất cả sẽ không còn biên giới quốc gia theo đúng tinh thần thế giới đại đồng; khi đó Trung Quốc sẽ nhường tỉnh Quảng Đông cho Việt Nam. Có bao nhiêu phần kiến thức loại nầy đi vào túi ruột tượng và bao nhiêu phần đi vào tim óc của đàn kiến du cư nầy? Nếu loài kiến thức đó thực sự đi vào tim óc của chúng thì có bao nhiêu phần sẽ nán lại theo tuổi đời của chúng và bao nhiêu phần sau đó sẽ vĩnh viễn ra đi? Giữa phần ra đi và phần nán lại đó, phần nào sẽ đóng góp như một hành trang cho những mảnh đời du mục của chúng?

 

Có lẽ cả hai; nhưng đó không phải là tất cả. Phần to lớn hơn và thiêng liêng hơn vẫn là những trải nghiệm vô giá trong tuổi thơ của chúng, những sáng băng đồng, những đêm vượt sông dài, những ngày đói lạnh, những dong ruổi trong tầm đạn oan nghiệt đến từ một nền văn minh xa xôi bên kia mặt địa cầu. Bè bạn của chúng là dòng sông nước lợ thường gặp chúng hai lần khi thủy triều lên và hai lần khi thủy triều xuống. Khi dòng sông chảy ngược về nguồn, nó dìu lũ trẻ qua bờ sông phía nam ở điểm hẹn thứ nhất vào lúc ba giờ sáng và khoảng hai tiếng sau nó lại đưa chúng ngược lại chính bờ sông phía bắc để chúng đến trường. Khi thủy triều xuống, nó đón lũ trẻ trở về từ thượng nguồn ở gần con đập để đưa chúng qua bờ sông phía nam và sau khoảng hai tiếng nó đưa chúng qua bờ bắc trở lại để chúng về với mẹ cha. Cũng trong phần to lớn đó có tình thương vô bờ bến của cha mẹ chúng, có cả phần xương thịt của những người nằm xuống, kể cả xương thịt của bạn bè của chính chúng. Và cuối cùng là hình ảnh của chiếc bè du mục trôi trên vùng cát trắng đồng chua suốt thời ly loạn. Phải chăng chúng đang di chuyển trong cuộc hành trình hóa kiếp, và hóa kiếp từ loài kiến để trở thành loài sinh vật gì đây? Cứ nhìn vào khuôn mặt hồn nhiên vô ưu của đàn kiến đó người ta mới nhận ra thế nào là thiện và thế nào là ác, đâu là thiên thần và đâu là ác quỉ.

 

Xen lẫn với tiếng đạn hú bom rền còn có tiếng chim dồng dộc reo vui trong ngày hạ, những khóm rừng lá ươm vàng theo từng độ thu về dọc theo con đường đám trẻ du cư đi học hay rong chơi như lũ chim non vô ưu, tiếng gió chiều vi vu trên những hàng dương liễu và những lũy tre xanh, tiếng sóng xô bờ của dòng sông nước lợ và mây trắng tha thướt nhẹ nhàng bay trên đỉnh Trường Sơn. Bên cạnh thế giới băng đồng vượt sóng còn có những ngày lang thang trên non cao vào những lúc không có giờ học ban ngày.  Đó là thế giới của những con suối nhỏ trong  hốc đá, lùm cây, những cây dâu rừng trĩu trái vào mùa xuân, những cánh rừng chồi chà là, rừng hoa sim tím, những ao nước trong xanh trên sườn núi đầy những đàn ốc bươu vàng. Đó còn là những đàn cò khoan thai nhẹ nhàng sải cánh mỗi chiều theo đội hình tam giác, thong dong bay từ rừng núi Trường Sơn xuôi về biển, tựa hồ như mang thông điệp của những ngày bình yên đâu đây ở phía trước. Tiếng ve kêu rả rích những ngày hè trong rừng trúc khiến thời gian chùng lại và cuộc đời du cư bớt phần hối hả theo nhịp thoi đưa.  Thời gian còn chùng lại với tiếng cuốc gọi hè và bìm bịp réo thâu canh, tiếng tu hú tháng ba khi lúa trổ trên đồng đưa hương thơm ngào ngạt trong những chiều đứng gió.  Đó còn là những mối tình không trọn trong bước lao lung, những thương tiếc khôn nguôi như dòng sông lưỡng lự khi ngược hướng về nguồn. Trên vùng trời đầy giông bão đó vẫn còn le lói một số vì sao soi đường cho đoàn người du mục, giúp họ nhìn lên trời mà bước, tạm quên đi chông gai trải dưới bàn chân. Tất cả như những nét chấm phá hồn nhiên cho bức tranh nhân bản của chiếc bè du mục.

 

Một vài ngày trước khi Sỹ ra đi, Trang hỏi chồng:

- Anh định về thành phải không?

- Không, Sỹ đáp. Nếu anh định về thành thì anh phải đưa mẹ con em đi cùng, sống chết có nhau; anh đâu hèn đến độ tính riêng cho mình. Những ngày này bọn Pháp giết chúng ta những người dân vô tội không gớm tay; chúng giết không phân biệt; tại sao chúng ta lại tìm đến ác quỉ? Tại sao chúng ta lại đồng lỏa với bọn giết người cướp của, những con thú đang mặc đủ loại áo quần văn minh và tiến bộ của loài người và với những phương tiện sống vượt xa phần còn lại của trái đất? Tại sao chúng ta phải khiếp sợ trước những sinh vật chỉ biết xử dụng tiến bộ văn minh, xử dụng những guồng máy giết người hữu hiệu để tàn sát và nô lệ hóa kẻ khác?

- Nếu thế anh đi tham gia kháng chiến à?

- Cũng không.  Gia đình anh em biết rất rõ. Anh không làm chuyện đó. Nếu chỉ đánh Pháp không thôi thì cũng không đủ lý do để chúng ta phục tùng chế độ của mấy thằng công an nầy. Anh không thể hy sinh cho một huyền thoại xa xăm mơ hồ được đại diện trước mắt bằng những tên đồ tễ. Nhưng ngược lại anh không thể ngồi yên, không chấp nhận làm những kẻ tiêu pha ngày tháng trong bằng lòng một cách vô nghĩa như mấy thằng Vệ, Hộ, Đợi, Chuân, Thiết, Trí, Thống... kia đâu. Vã lại, anh cũng không có được thứ hạnh phúc của những kẻ vẫn tin mình có một cái gì để bênh vực, bảo vệ, và bào chửa, có một niềm tin để tôn thờ, một chủ nghĩa để hy sinh. Em ở lại gắng nuôi dưởng con. Đừng nghĩ đến chuyện về thành mà sống. Hãy suy nghĩ cẩn thận; tình hình nguy hiểm lắm, bọn công an vẫn rình rập đêm ngày; không khéo sẽ rước họa vào thân và làm hại con đấy. Có thể anh sẽ đi một mình nhưng cũng có thể đi cùng với một người khác, nhưng em đừng bận tâm về người kia. Đi cùng không có nghĩa là đi cùng một hướng hay đến cùng một nơi. Nếu mẹ con em sống sót được cuộc chiến nầy và sau nầy con mình lớn lên, em hãy để cho nó tự chọn con đường của nó. Hãy dạy cho nó viết văn và làm thơ. Đó là những vũ khí mà đám thống trị nào cũng sợ. Dó đó đừng để con mình dùng những vũ khí đó phục vụ bọn thống trị. Và hãy bảo nó quên đi những điều nó học ở trường về tình đoàn kêt Việt Trung Xô hay tình đoàn kết Việt Miên Lào, quên đi huyền thoại về vũ trụ tuyến của Liên Xô và mơ ước Trung Quốc sẽ nhường cho Việt Nam tỉnh Quảng Đông như nghĩa cử cộng sản quốc tế, được nói là không có biên giới quốc gia, đương nhiên theo giả định.

-  Nhưng đi thì phải biết mình đi đâu, đi vì cái gì, và bao giờ phải dừng lại chứ?

-  Đừng nghĩ rằng phải có cái mình cần tìm thì mới đi tìm. Cần cái gì thì đi tìm cái đó, không cần biết cái đó có hay  không. Đi tìm thì sẽ có. Không đi thì không bao giờ đến.

 

Sỹ ra đi ngày 15 tháng bảy, năm 1950. Sau khi Sỹ ra đi một thời gian, Trang biết được rằng Bài cũng vắng nhà, lúc đó và mãi về sau. Trang và Oanh đến nhà nhau thường xuyên hơn từ đó. Hai thiếu phụ vẫn sống thản nhiên như ngày nào còn có chồng bên cạnh, không một chút ưu tư hay sầu muộn. Lộc, con của Trang, và Dũng, con của Oanh dần dần cũng thôi tra hỏi mẹ về cha của chúng. Khi Lộc nhất định đòi mẹ phải trả lời thì Trang chỉ nói nửa đùa nửa thật, "Cha con đi săn mặt trời."  Nói xong hai mẹ con cùng cười. Họ ở lại chịu đựng thêm hai mùa giông bão nữa thì đến ngày đình chiến vào năm 1954. Họ lập tức chia tay nhau.  Oanh đưa con về lại Đà Nẳng còn mẹ con Trang thì theo tàu lửa để đi về Sài Gòn.  Trong số những người sơ tán ở Vân Khương, có người đi vào Qui Nhơn như vợ chồng ông Năm Đà có đứa con trai tên là Tuấn và đứa con gái tên là Tú.  Gia đình nầy rất thành công, phần lớn nhờ sớm đổi được khối tiền tín phiếu ra tiền Bảo Đại. Với số vốn lớn đó, vợ chồng ông đã mua được một phố đúc ở mặt tiền đường Gia Long thành phố Qui Nhơn và mở tiệm buôn phụ tùng xe đạp. Phần lớn những người khác không thức thời, cứ tin vào giá trị vĩnh viễn của đồng tín phiếu như tin vào Hiệp Thương nên đã mất toàn bộ hay một phần rất lớn tiền của kiếm được trong mấy năm sơ tán. Lúc đầu còn đổi tiền được, sau đó đồng tín phiếu tuột giá rất nhanh cho đến khi .... thành giấy lộn, không ai đổi được nữa. Một số khác đi về lại Vĩnh Điện, như gia đình ông On ở phía tây bắc cầu An Tân, ven bờ sông và rất gần nhà tên công an Ba Giáo.  Ông On có ba tiểu thư rất đẹp và sống hầu như biệt lập với mọi người trong suốt thời gian sơ tán. Ông cũng thuộc loại người thức thời nên có dư tiền để tậu được một tiệm buôn đồ kim khí ngay tại ngã ba Vĩnh Điện, đường đi xuống Hội An. Đa số những người còn lại đi vào Sài gòn và tập trung chủ yếu ở Ngã Tư Bảy Hiền để tiếp tục nghề dệt. Chỉ trong vòng mấy năm sau hầu hết họ đã thành công và trở nên rất giàu có, nếu không nói là thế lực tại Sài gòn, con cái học hành thành đạt.

 

Sau ngày Đình Chiến, những thanh niên như Chuân, Đợi, Hộ, Vệ, Thiết... theo nhau đi vào Đập Đá để xuống tàu tập kết ra Bắc. Thành phần nầy thuộc số những thanh thiếu niên đã sống như chùm gởi suốt thời giai sơ tán, sống lêu bêu như những người lánh nạn, không một ý thức nào về cuộc chiến và cũng không hề có một khái niệm chính trị, không hề giúp gì cho cộng đồng người du cư. Khi cuộc chiến tàn, họ là những người đầu tiên mạnh dạn xa gia đình để xuống tàu tập kết, có lẽ mơ ước tiếp tục hưởng thụ sự an nhàn thời bình trong thiên đường đất Bắc. Trong khi đó, những người hy sinh xương máu và tuổi trẻ của họ cho cuộc chiến như Lương Châu và Lê Liên thì không đi theo hướng nầy.  Lê Liên hồi hương về Bảo An cùng với gia đình.  Lương Châu đưa gia đình cha mẹ và hai đứa con gái của mình vào Sài Gòn lập nghiệp. Phan Nhi cũng vào Sài Gòn trong đợt nầy. Sau một thời gain lận đận ở xứ người, khoảng năm năm sau, nhờ vào nghề làm kẹo đậu phộng, Phan Nhi đã tậu được một căn phố đôi bốn tầng lầu ở mặt tiền đường Trương Minh Giảng, phía đối diện với nhà thờ Ba Chuông. Cùng trong thời gian nầy, ở Ngả Tư Bảy Hiền, Lương Châu đã tạo được cơ ngơi nhờ vào nghề dệt. Bấy giờ Châu có cả xe hơi Mazda mới nhập từ Nhật, không kể những xe Vespa, Lambretta đời mới nhập từ Ý. Lúc đó Châu đã có bốn đứa con gái rất xinh đẹp và ba cậu con trai dễ thương với đời vợ sau.

 

Sau khi Miền Nam thất thủ vào năm 1975, một số những thanh niên đi tập kết nói trên đã từ Miền Bắc trở về với những chức vụ khá lớn trong chính quyền tiếp quản. Nhưng đó không phải là trường hợp của tất cả mọi người đi tập kết trở về. Số còn lại trở về với nỗi bất mãn và cay cú, nhất là khi thấy những thành tựu trong số những bạn bè cũ của họ ở lại trong Nam sau ngày đình chiến.  Họ cũng nhìn thấy sự thành công không thể tưởng tượng nơi những người đồng hương đồng cảnh với họ thời sơ tán đã vào lập nghiệp tại Sài Gòn, sự thành công mà sau đó chính chế độ tiếp quản đã ra tay triệt hạ qua các đợt kiểm kê đánh tư sản mại bản. Sau ngày Miền Nam thất thủ, cũng như hầu hết những người giàu có trong nam, đa số những gia đình giàu có ở Ngả Tư Bảy Hiền đều bị tước đoạt tài sản, vàng bạc, nhà cửa và bị tống đi kinh tế mới.  Chỉ có những tay nằm vùng như Tạ Hẳn và Phan Thanh Quang (tên gọi thường ngày là Xăng) là không hề hấn gì cả và ngược lại còn tiếp tục lên như diều gặp gió. Tạ Hẳn và Phan Thanh Quang trước cũng thuộc đám du cư như đa số người ở Ngả Tư Bảy Hiền.

 

Cộng đồng du cư ngày nào ở Vân Khương bấy giờ mới nhận ra sự trớ trêu của lịch sử.  Phần lớn họ đã theo kháng chiến suốt chín năm, chịu bao nhiêu mất mát hy sinh. Ngoại xâm đã cướp đi của họ tất cả tài sản, ruộng vườn, nhà cửa, sự nghiệp, và thậm chí cả tính mạng của những người thân, cướp đi tương lai của con cháu họ. Khi đất nước thống nhất, họ vẫn nghĩ rằng chế độ mới, trong bản chất, sẽ không khác mấy với cái chế độ mà họ đã từng phục tùng và hợp tác trước năm 1954 ở Liên Khu Năm. Sự thực đã hoàn toàn ngược lại. Hầu hết những gia đình Quảng Nam tại Ngả Tư Bảy Hiền đều là nạn nhân của mấy đợt kiểm kê đánh tư sản và những đợt đổi tiền tiếp theo sau đó. Chưa hết, chính quyền địa phương tìm mọi cách đưa họ đi kinh tế mới để lấy nhà cửa của họ. Với họ, đấy chẳng khác mấy với tình cảnh của năm 1945, khi quân Pháp tiến đánh, triệt tiêu cơ ngơi sự nghiệp của họ và buộc họ đi sơ tán. Nhưng chế độ mới triệt hạ tư sản để làm gì?  Để trả thù chăng? Nhưng cộng đồng Ngả Tư Bảy Hiền đã làm gì để họ trả thù? Họ triệt hạ tư sản để thực hiện một xã hội không giai cấp và công bằng hơn chăng? Hay họ chỉ thu tóm tài sản của kẻ khác vào tay kẻ chiến thắng? Có lẽ thu tóm tài sản vào tay giai cấp thống trị thì đúng hơn, vì trên thực tế không bao giờ có một thứ xã hội không giai cấp và cũng không bao giờ có cái mệnh danh là giai cấp vô sản. Những phạm trù đó chỉ có trong thiên đường công nhân của Karl Marx mà thôi, loại thiên đường cho đến ngày nay và có lẽ mãi mãi sau nầy không bao giờ có được.  Xã hội Việt Nam sau 1975, từ nam chí bắc, chỉ là một xã hội thay trắng đổi đen, diệt tư sản xanh để củng cố giai cấp tư bản đỏ, tiếp tục đàn áp và bóc lột thành phần còn lại của xã hội, loại trừ mọi thành phần trước đây đã chống lại hoặc hiện nay không hợp tác với họ. Thì ra trong thời kỳ chống Pháp họ không để lộ nguyên hình bản chất ích kỷ của giai cấp thống trị, họ dùng lá bài vô sản và lòng ái quốc để che đậy mục tiêu tối hậu của họ là quyền chính chứ không phải là một xã hội công bằng không phân chia giai cấp, và cũng chẳng bận tâm đến một thế giới đại đồng hoang tưởng nào đó. Vơ vét được là cứ vơ vét, không cần biết đó là thù hay bạn đã từng đứng chung chiến tuyến với họ một thời.

 

Họ sẽ xây dựng một xã hội gì đây? Phải chăng đó sẽ là một đàn cừu co ro nhút nhát được đảng đứng ra chăm sóc? Chúng sẽ được bình yên nếu cam đành nhắm mắt trước những bất công, bóc lột và lừa đảo? Chúng sẽ được hưởng đầy đủ những bổng lộc và những bộ lông cừu vàng nếu tuyệt đối phục tùng chế độ, vừa vổ tay vừa hát mãi những điệp khúc giai cấp đấu tranh và ưu việt xã hội chủ nghĩa? Theo thời gian chúng sẽ quên đi nguồn cội con người mà chế độ đã từng bước cướp đi của chúng? Một ngày nào đó khi nhìn chung quanh chỉ thấy toàn cừu bố, cừu mẹ, và cừu con, với đủ sắc lông, chúng sẽ giật mình tự hỏi:

-  Các bố chăn cừu và đàn chó dữ đâu hết cả rồi?

-  Chúng ta sẽ được tự do chăng?

-  Mọi thứ trên đời đều phải trả giá, nhất là tự do.  Ai trong đám cừu của chúng ta chịu hy sinh chiến đấu mà hy vọng có tự do?

-  Nhưng lịch sử có luận lý riêng của nó; biết đâu, do ngẫu nhiên tuyệt đối, nó có thể bất ngờ mang đến một món quà cho không mà nó nghĩ chẳng ai cần đến nữa.

-  Và thực sự chúng ta đâu cần tự do nữa.  Đó chỉ là một khái niệm khiến chúng ta đau khổ khi còn làm người. Lịch sử không bao giờ mang đến những gì chúng ta cần mà không chịu đòi hỏi. Nếu bây giờ lịch sử có mang tự do đến thì đó chỉ là món quà cho không, ngẫu nhiên, vô giá trị, vì chúng ta không cần đến nó nữa. Hơn nữa, ai đã cho đi cái gì thì cũng có thể lấy lại cái đó, nhất là những gì được cho đi vô điều kiện.

 

Lũ cừu đâu biết rằng chủ nghĩa xã hội đã tiến xa đến thời kỳ giai cấp chăn cừu đã tự giải tán, và đám chăn cừu ngày xưa, chính họ, bây giờ cũng hóa thành cừu trong những bộ lông cừu đỏ và sống biệt lập trên những ngọn núi cao. Đồng cỏ xanh tươi nhất bên dưới dành cho thiểu số cừu thượng lưu có bộ áo lông cừu vàng.  Phần thảo nguyên mênh mông còn lại trên phần lớn địa cầu trở thành môi trường sống của những đàn cừu với những bộ lông tạp sắc, bị giam hảm trong từng vùng có hàng rào cao; một số trong đám cừu tạp sắc nầy bị đưa vào lò sát sinh vì tội bất phục tùng. Thời gian cứ tiếp tục trôi và từng bước giúp đàn cừu quên đi câu hỏi về thân phận, quên đi hoài niệm về thuở làm người, và quên đi nguồn cội tiến hóa, mà chúng nghĩ là tiến hóa theo vòng tròn, trong đó điểm đi và điểm đến cuối cùng là một.  Tuy nhiên, lịch sử là sự lặp đi lặp lại; và, theo bản năng còn sót lại của loài động vật có ý thức, một lần nữa lũ cừu lại hỏi nhau:

-  Các bố chăn cừu và đàn chó dữ đâu hết mất cả rồi?

-  Có thể chúng ta đã thực sự được giải phóng rồi?

-  Nếu giải phóng là đưa chúng ta ra khỏi thân phận làm người thì chúng ta thực sự được giải phóng rồi. Nhưng sao vẫn còn cái hàng rao cao và kiên cố kia?

-  Đó là kết quả tất yếu của một hợp đồng xã hội mà chúng ta đã mặc nhiên ký kết.  Một mặt, nó bảo vệ chúng ta khỏi bị thú dữ từ bên ngoài tấn công.  Mặt khác, nó đã trở thành một yếu tính hiện hữu và sinh tồn; chúng ta không thể sống mà không có nó. Bên ngoài cái thế giới được vây quanh bởi cái hàng rào cao và kiên cố kia, dứt khoát chúng ta sẽ dễ bị thương tổn vì có thể có quá nhiều rủi ro không thể tiên liệu được.  Chúng ta không thể sống sót bên ngoài một không gian hữu hạn. Bên trong cái hàng rào đó, chúng ta là một xã hội hài hòa không giai cấp của những con cừu tạp sắc, bình đẳng với nhau về của cải vật chất, về phẩm chất, về địa vị xã hội, và về giá trị cố hữu. Đó là một trật tự hoàn chỉnh không ưu tư về ngày mai, vì ngày mai là phận sự của đám cừu áo đỏ trên cao; không lưu luyến về quá khứ, vì quá khứ thuộc về bọn tư sản, vốn không còn chung chủng loại hoặc trình độ tiến hóa với chúng ta. Chúng ta không quen với những thế giới có loài ánh sáng quá chói chang của tự do và khát vọng, vì thị giác và tri giác của chúng ta đã được điều kiện hóa để sống trong một thế giới hai chiều không có ánh sáng đến từ chiều thứ ba.

- Như thế, chúng ta cũng có ngày và đêm, nhưng khái niệm về ngày và đêm đó không phải như là những nêu mốc báo hiệu cho tiến trình hiện hữu mà chỉ là những điệp khúc của thời gian vật lý. Chúng ta biết sinh ra và chết đi, biết đói, biết khát, biết đánh nhau vì miếng ăn, biết phải giải quyết những nhu cầu sinh lý và vật lý, nhưng chúng ta không biết đến những gì xảy ra cho những con cừu bên cạnh.

- Thực ra chúng ta không cần phải bận tâm đến vấn đề đó làm gì vì nó thuộc trách nhiệm và quyền hạn đã có đám lừa áo đỏ trên núi cao.

-  Chúng ta sống thành bầy nhưng mỗi cá nhân được giam hảm trong một không gian tâm lý riêng biệt không nhìn thấy hiện hữu thực sự của tha nhân. Chúng ta đã mặc nhiên ủy thác cho đám lừa áo đỏ trên núi cao quyền chăm sóc số phận của chúng ta.

-  Không có họ chúng ta sẽ mất phương hướng trong suy tư và hành động.

-  Đó chính là hiện tượng vong thân tuyệt đối. Với danh nghĩa là kẻ được ủy thác, đám cừu áo đỏ làm chủ định mệnh của chúng ta và xem những sai lầm chính trị như là sai lầm của chính chúng ta, vì họ chỉ là những người được ủy thác, nghĩa là cái gì đúng là của họ và cái gì sai là của chúng ta.

- Nhưng đâu phải bây giờ chúng ta mới bị tha hóa; khi từ bỏ thân phận làm người chúng ta đã tự ý chối bỏ chính mình rồi.

-  Từ đó chúng ta tiếp tục luân lưu trong đời tựa như chúng ta là người, trong khi chúng ta chỉ giả vờ làm thế. Chúng ta giả vờ xem tha nhân chung quanh chúng ta như những con người, giả vờ xem những mối quan hệ xã hội là quan hệ nhân bản, giả vờ tuân thủ chế độ như tuân thủ những bộ luật của con người, giả vờ tin tưởng vào các định chế xã hội như là những định chế của một giai đoạn tiến hóa nhân loại nào đó trong tiến trình tiến hóa chung của nhân loại, giả vờ đang nằm trong những chiếc nôi êm ả của chủ nghĩa xã hội và rất ngại ngùng lên tiếng khóc vì sợ làm khinh động chế độ vú em, giả vờ đang đi trên lộ trình tiến đến thế giới đại đồng, giả vờ thỉnh thoảng lên tiếng để nói với người và tự nói với mình rằng chúng ta hãy còn sống, còn biết yêu thương và khát vọng, giả vờ quên đi những mơ ước tự do, quên đi sự căng thẳng và dằn vặt cố hữu cũng như ý thức siêu việt vốn phân biệt con người với con vật, và quên đi sự kiện chúng ta không còn là những thành tố của một nền văn minh mang yếu tính của con người.

- Chỉ có bọn tư sản mới quan tâm đến phẩm chất cuộc sống và phẩm giá.

 

Đúng vậy. Như Charles de Montesquieu từng nhận định, "Phẩm giá phần lớn không thể có trong một nền quân chủ và dứt khoát không có dưới chế độ toàn trị…Phẩm giá hoàn toàn không cần thiết với loại chế độ nầy."

 

Cũng từ khi giai cấp chăn lừa tự giải tán, bên kia thế giới của loài cừu, nhân loại tìm đến nhau từ những con tàu bị nạn trên đất liền và trên mặt biển.  Chủ nghĩa độc tài mềm đã từng bước thu tóm quyền lực và của cải vào tay những tập đoàn cá mập không có biên giới quốc gia rõ rệt. Các định chế chính trị và kinh tế bị lũng đoạn đến độ phần lớn nhân loại trở thành những giai cấp ăn theo như những đám nô tì. Kẻ giàu thì có đủ phương tiện để giàu thêm và độc quyền năm giữ quyền chính.  Kẻ nghèo chỉ còn quyền đi bỏ phiếu với những lá phiếu được các hệ thống siêu quyền lực định đoạt trước. Cuối cùng họ bị đẩy vào những bộ lạc với những điều kiện sống chật vật và từ đó họ mơ ước và ganh tỵ thế giới của loài cừu. Thực ra, trong bản chất, hai thế giới không có những khác biệt gì lớn: Với chính sách tiệm tiến, các tập đoàn tài phiệt đã thành công từng bước nới rộng và đào sâu hố ngăn cách giữa họ và giai cấp bị trị khiến không còn ai đứng bên kia hố có đủ khả năng tiếp cận được họ, và từ đó họ trở thành những kẻ bất khả xâm phạm. Tình trạng bất lực tuyệt đối đó của xã hội chính là mục tiêu tối hậu của các giai cấp bất khả xâm phạm trong thế giới loài người cũng như thế giới loài cừu.

 

Trở lại thời gian sau ngày đình chiến 1954, hai mẹ con Trang nói là đi vào Sài Gòn, nhưng thực ra là vào Trảng Bàng, cách Sài Gòn khoảng 50 cây số về hướng Tây Ninh. Bình, người anh của Trang đã một thân một mình đeo tàu lửa vào Nam từ trước năm 1945. Sau nhiều năm vất vả lao đao, ông đã kiếm được một việc làm ở sở nhà đoan và lập gia đình với một căn nhà khá khang trang gần chợ Trảng Bàng. Trong thời gian tá túc ở đây khoảng ba tháng Trang đã liên lạc được với Quí, một người em họ của Sỹ đang sống tại Sài Gòn. Quí đã xin cho Trang một chân bán thuốc tại một nhà thuốc tây ở đường Trương Minh Giảng. Thế là hai mẹ con Trang xuống Sài Gòn và thuê một căn trọ trong một con hẻm nối liền đường Trương Minh Giảng và đường Nguyễn Huỳnh Đức. Sáu năm sau, Trang mua được một căn nhà nhỏ ở đường Trương Tấn Bữu, không phải ngoài mặt tiền mà nằm hơi sâu bên trong, gần bót cảnh sát Nguyễn Văn Tập. Lộc bấy giờ đã vào đại học và theo học chương trình MPC tại Đại Học Khoa Học Sài Gòn.

 

Có lần Lộc nói với mẹ:

- Nếu trái đất phẳng thì cha của con và cha của Dũng có thể đang ở trên một hòn đảo cuối Biển Đông hay trên một ngọn núi cao nào đó của Dải Trường Sơn; vì người ta chỉ gặp được mặt trời ở hai điểm cực đó lúc rạng đông hay lúc hoàng hôn.

- Nhưng bên kia hòn đảo mà con nói và bên kia ngọn Trường Sơn lại tiếp theo một không gian vô tận khác trước khi đến gần được mặt trời, con ạ. Vã lại trái đất mà chúng ta đang sống không phải là một mặt phẳng.

- Con biết trái đất tròn; nhưng mặt trời mà cha đi tìm không phải là mặt trời của trái đất tròn. Thế giới của cha không phải là thế giới vật lý mà mẹ con ta đang sống; nhưng chúng ta không thể nói đó là một thế giới ảo được, vì đôi khi con người vẫn mong ước đi ngược dòng thời gian về quá khứ hay đi trước thời gian để du hành vào tương lai nhằm giải quyết phần nào khát vọng của mình và chối bỏ hiện tại. Nếu chỉ chối bỏ hiện tại không thôi thì cha đã làm được chuyện đó. Và chỉ chuyện đó thôi chính con lại thấy quá nhiều khó khăn.

- Con đang nghĩ về hành trình của cha ngày trước?

- Con cũng không rõ lắm.

- Nhưng dù gì đi nữa thì con cũng gắng hoàn tất chương trình cao học trước đã, nghe con.

- Chuyện đó đối với con không còn quan trọng nữa đâu mẹ ạ. Khi ra đi, cha đâu cần phải hứa hẹn với chính mình một điều gì đâu, đúng không mẹ? Bạn bè con một số tình nguyện đi sỹ quan, một số bị động viên ngoài ý muốn, một số lén lút vô bưng, một số trốn chui chốn nhủi vì sợ quân dịch. Có những lối thoát rất gần mà đôi khi con người không ý thức được. Khi nói với mẹ những lời nầy con cũng không rõ mình đã ý thức được lối thoát đó chưa; nhưng có một điều chắc chắn là con nhớ rất kỷ lời cha đã nói với mẹ trước khi ra đi: "Mặt trời anh cần không thấy có nên anh phải đi tìm, và tìm bên ngoài cuộc chiến nầy, bên ngoài hai chiến lũy." Nếu quả thực một ngày nào đó không còn có con bên cạnh mẹ nữa thì thỉnh thoảng mẹ nhớ đọc lại những dòng nhật ký có ghi lời cha nói trước khi ra đi.

- Mẹ không cần phải đọc lại nhật ký đâu.  Sau gần hai mươi năm sống cảnh mẹ góa con côi, mẹ đã thuộc lòng những lời cha con nói.

- Và mẹ sẽ không buồn phiền gì nếu con ra đi?

- Không. Mẹ sẽ không buồn phiền gì vì cha con có nói với mẹ hãy để cho con tự chọn hướng đi của con. Và lần nầy chắc chắn con không đi vô bưng chứ?

- Vô bưng thì cũng chỉ là một hình thức trốn chạy mà thôi. Trong thời du cư chúng ta ở ngay trong lòng Liên Khu Năm nhưng bấy giờ cha có chọn đi theo Việt Minh đâu; tại sao bây giờ con lại trốn đi vô bưng?

- Thế tại sao con không ở lại với mẹ, với bạn bè của con?

- Đây không còn là vấn đề tình cảm nữa đâu mẹ. Xã hội và đất nước nầy không còn là xã hội và đất nước của chúng ta nữa rồi.  Những năm gấn đây Mỹ đã đổ quân vào đây ồ ạt. Có thể nhiều người bằng lòng với hiện tượng đó, nhưng con thì không.  Người Mỹ có thể văn minh tử tế với nhau trên đất nước của họ, nhưng họ không đối xử người Việt chúng ta như thế đâu. Trước đây, trong một lần lên lại Trảng Bàng để thăm Cậu Bình, khi đi qua Củ Chi con đã chứng kiến những cảnh rất nham nhở của lính Mỹ. Lúc bấy giờ khoảng hơn bảy giờ sáng.  Lính Mỹ di chuyển chậm trên những chiếc GMC xuyên qua thị trấn Củ Chi. Phố xá bấy giờ đã mở cửa và người qua lại hai bên đường đã tấp nập.  Trong đám người qua lại đó có những tốp nữ sinh mặc áo dài trắng đang đi học.  Đám lính Mỹ ngồi trên hai dãy ghế của những xe đang chạy chậm qua phố, và tất cả những lính Mỹ ngồi phía tay phải sát với lề đường của những người đi bộ đều quay ngược người về phía lề đường.  Nhiều tên chồm người và đưa ta ra ôm xốc các nữ sinh đang trên đường đi bộ đến trường.  Vì xe đang chạy nên khi chúng buông những nữ sinh nầy ra thì các em ngả sấp xuống lề đường. Một số tên thò tay bóp vú các em rồi cười ha hả. Họ làm chuyện đó một cách thản nhiên, miệng cười nói inh ỏi và thỏa mãn, xem đất nước chúng ta như là một sân chơi giải trí, nếu không nói là một sở thú với những con thú đáng thương và đáng khinh bỉ. Họ xem con người của chúng ta như những động vật hòan toàn khác chủng loại với họ, không bao giờ có thể đứng gần tầm mức văn hóa và văn minh của họ. Có lẽ họ đã từng làm thế nhiều lần và sẽ còn tiếp tục những trò tồi tệ hơn thế với sự đồng tình của cấp chỉ huy của họ. Đó là giữa chốn thị tứ và là vùng thuần túy quốc gia. Những gì có thể xảy ra trong những vùng xa xôi hẽo lánh mà họ hành quân tới? Tất cả những người đứng chứng kiến chung quanh sáng hôm đó đã nghĩ gì thì chắc mẹ cũng thừa biết.

- Mẹ không đi nhiều nên không thấy những chuyện như con nói, nhưng ngay tại Sài Gòn nầy, mẹ đã chán ngán sự khuynh đảo của Mỹ khiến chính trường của Miền Nam trở thành một sân khấu của những thằng hề, thay phiên triệt hạ nhau, thanh toán nhau, và thay nhau phục tùng sự áp đặt của Mỹ, chưa kể đến nạn tham nhũng lan tràn trong quân đội và cơ quan chính phủ, nạn kiêu binh của các đám lính về thành, nạn mãi dâm, du đãng.... Mẹ đồng ý là trong hoàn cảnh chiến tranh, nên nhìn mọi việc với cặp mắt tương đối, nhưng mọi thứ đều có một giới hạn của nó. Với tình trạng như hiện nay, chế độ này làm sao mà thắng được?  Nếu thắng thì cũng chỉ làm một vệ tinh của Mỹ mà thôi. Và nếu thua thì chúng ta lại chui vào một bức màn sắt như kiểu Nga Sô và Trung Cộng. Chúng ta có thể qui trách cuộc chiến nầy cho cả hai bên, và xa hơn nữa cho những thế lực từ bên ngoài. Đó là chưa kể nạn thao túng và lũng đoạn của đám tài phiệt người Tàu ở Chợ Lớn. Đám siêu quyền lực vô ơn bạc nghĩa nầy xử dụng lượng tiền của khổng lồ làm ra tại đất nước chúng ta để bắn trả chúng ta bằng cách phá hoại chế độ cộng hòa qua thủ đoạn tham nhũng, tạo nên trình trạng mua quan bán tước trong quân đội và các cơ quan chính phủ. Họ nghiểm nhiên trở thành những chủ nhân ông của các quan chức Việt Nam. Muốn thăng quan tiến chức hay giữ cái ghế ngồi hiện có thì phải đến cầu cạnh họ. Nếu chúng ta không mất nước về tay cộng sản thì cũng mất nước về tay người Tàu, một viễn tượng u tối hơn cả thời ngàn năm bắc thuộc. Dù chưa thực sự mất chủ quyền về tay đám tài phiệt người Tàu thì ở một mức độ nào đó chúng ta đã làm nô lệ họ mà ít ai ý thức được đại nạn đó hay ý thức được nhưng vẫn không dám lên tiếng vì sợ rước họa vào thân. Nếu xét về phương diện tham nhũng và thối nát thì chúng ta tứ đầu thọ địch, hiểu theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.  Thứ nhất, đó là đám quan liêu trên chóp bu guồng máy cai trị của chúng ta, chỉ biết đến bản thân họ, gia đình họ và những tay chân phục vụ quyền lợi của họ, không cần biết đất nước dân tộc là gì. Thứ hai, đó là Mỹ với thủ đoạn phân hóa chúng ta để dễ bề thao túng và lũng đoạn nhằm sai khiến chúng ta, buộc chúng ta phục vụ quyền lợi của họ. Thứ ba, đó là cộng sản Miền Bắc đang ráo riết ngấm ngầm tiến hành tham nhũng bên trong guồng máy cai trị của Miền Nam, một mặt để bôi đen hình ảnh của nền cộng hòa, mặt khác, nhờ vào tham nhũng, họ có thể cài đặt gián điệp và đám nằm vùng nguy hiểm. Thứ tư, và cũng là cuối cùng, đó là đám tài phiệt người Tàu vừa đề cập ở trên, nguy hiểm không kém ba thế lực kia. Đương nhiên trách nhiệm trước hết và trên hết vẫn thuộc về giới lãnh đạo của chúng ta, không thể qui cho ai cả.

- Nếu cha có mặt ở đây và vào lúc nầy thì có lẽ cha cũng sẽ thực hiện một lựa chọn tương tự như lựa chọn mà cha đã thực hiện hồi thập niên 1950 ở Liên Khu Năm. Chắc chắn cha cũng không thể chấp nhận được một chế độ phần lớn được định đoạt bởi những tướng lãnh xuất thân từ quân đội Pháp và chính phủ bù nhìn của Bảo Đại. Suốt chín năm lưu đày chúng ta đã nhận quá nhiều đau thương và mất mát vì những tội ác của quân đội viễn chinh Pháp và chính quyền thuộc địa của họ. Chúng ta không thù hận ai cả; chúng ta vẫn tôn trọng và khâm phục những giá trị của nền văn hóa và văn minh Pháp, trong phần tốt nhất của chúng, đương nhiên; nhưng ngược lại chúng ta không thể đứng chung hàng ngủ của những người đã đồng lỏa với những kẻ đã thản nhiên bắn giết và săn đuổi chúng ta như một bầy thú. Chúng ta ý thức được giá trị của hai tiếng tự do nên, cũng như cha, chúng ta không đứng chung chiến tuyến với người cộng sản, và vì thế chúng ta chấp nhận ở lại Miền Nam trong khi lẽ ra chúng ta có thể tập kết để xuống tàu ra Bắc; nhưng đó không có nghĩa là chúng ta phục tùng vô điều kiện sự áp đặt của lịch sử. Người Pháp thường nói, "Giữa hai cái xấu nên chọn cái xấu ít hơn." Điều đó đúng khi chúng ta không có một lựa chọn thứ ba. Không ai phủ nhận tinh thần chống cộng và tài đánh trận của những tướng tá nầy; nhưng chống cộng và tài nghệ đánh giặc là một chuyện còn tinh thần dân tộc và lòng ái quốc là chuyện khác. Dứt khoát họ bị thách thức về mặt thứ hai nầy. 

- Phải chăng lựa chọn thứ ba đó là giải pháp của tuyệt vọng và nổi loạn tri thức?

- Không hẳn đâu mẹ à. Vũ trụ không nhất thiết chỉ có ba chiều. Bè bạn của con người không nhất thiết chỉ có những sinh vật trên trái đất nầy. Chúng ta có thể rời bỏ hiện tại, du cư một lần nữa, nhưng lần nầy chúng ta du hành về tương lai rồi sau đó trở về hiện tại, nếu muốn. Lúc đó chúng ta sẽ không còn là thành tố của xã hội loài người vốn được định đoạt bởi thời gian của trái đất và không gian hữu hạn ba chiều của con người.

-  Nhưng đi thì phải biết mình đi đâu, đi vì cái gì, và bao giờ phải dừng lại chứ?

-  Hình như mẹ đã hỏi cha câu hỏi đó rồi và cha hình như đã trả lời cho mẹ rồi.  Dừng lại thì có lẽ không bao dừng lại đâu, nhưng trở về thì có thể vì là du hành thời gian, nhưng không trở về theo nghĩa tìm lại quá khứ của mình.

-  Thế là mẹ sẽ mất hẳn cha con và con sao?

-  Nếu cha còn sống trở về thì có lẽ chúng ta sẽ không nhận ra được cha nữa; và sau nầy nếu con đi rồi sau đó trở về, và lúc đó mẹ còn sống thì mẹ sẽ không nhận ra con đâu. Đó là cái giá chúng ta phải trả và đó không hẳn là phương thức đi tìm hạnh phúc nếu hạnh phúc được hiểu theo nghĩa kiện toàn sự hiện hữu của một sinh vật xã hội với số phận bị ràng buộc bởi số phận của kẻ khác. Đó đúng hơn là phương thức đi tìm tự do đích thực, tự do với thời gian, với không gian, lịch sử và con người. Chúng ta sẽ tự do đi lại với loại du hành thời gian đó, tự do trên mọi hướng trình, tự do với mọi tranh chấp, âm mưu, tham vọng, lừa đảo….Con người lúc đó sẽ không còn được định nghĩa như là con vật có sử tính, con vật chính trị, hay con vật xã hội nữa.

- Có nghĩa là con sẽ hư vô hóa sự hiện hữu của mình?

- Chúng ta vẫn duy trì hiện hữu của mình sau khi làm cho nó trong suốt và biến đổi toàn bộ thế giới vật lý thành thế giới của ánh sáng.  Lúc đó con người sẽ không còn tự xem mình là tù nhân của kẻ khác, không còn nghe nhắc đến những từ ngữ như chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa xã hội nữa. Họ sẽ không chứng kiến cái được mệnh danh là thiên đường công nhân hay thế giới đại đồng. Ngược lại họ cũng sẽ không còn thấy giai cấp tướng tá với những đống huân chương Pháp đeo đầy trên ngực. Họ sẽ trở về thế giới cô đơn tuyệt đối của mình, cô đơn với loài người, cô đơn với vũ trụ bao la, với thời gian một chiều vốn là khung tham chiếu cố hữu của sinh tồn, không còn đồng lỏa với kẻ ác. Con người vẫn có thể sẽ chết đi như tất cả mọi tinh tú, thiên hà, hay chính vũ trụ, nhưng ít ra họ cũng được một kết liễu huy hoàng như các vì sao, với những ánh sáng vĩnh viễn phát đi khắp cùng vũ trụ, mang theo cả thể xác lẫn linh hồn của họ. Sự kết liễu nầy rất có thể sẽ xảy ra trước khi con người tự hủy diệt trái đất của mình để biến nó thành những thiên thạch bé nhỏ lang thang trong một vũ trụ đầy tai ách, hay thành một hành tinh chết, nguội lạnh trong không gian và mỏi mòn chờ đợi một chu kỳ tiến hóa mới nào đó với một chủng loại sinh vật mới nào đó khác hơn loài người.

- Cộng sảnchủ nghĩa xã hội là những từ ngữ lý ra đã biến mất từ lâu; đó là những từ ngữ bị lạm dụng nhiều nhất và thô bỉ nhất trong lịch sử cận đại và hiện đại. Đó là trò chơi nham hiểm nhất của lịch sử. Ban đầu đó chỉ là những tên gọi của thế đối chân hay nghịch đề của chủ nghĩa đế quốc và thực dân trong khi những lý thuyết bên trong đều là giả tạo và gạt gẩm, không tưởng và gượng ép. Trong tình hình đen tối của thế giới tư bản cuối thế kỷ mười tám với những mặt trái của cuộc cách mạng kỹ nghệ và tình trạng đau khổ ở các quốc gia bị xâm lăng bởi chủ nghĩa thực dân tiếp theo, nhân loại cần đến những phản đề và đối chân của chủ nghĩa đế quốc để khống chế con ác quỉ được đám tư bản cởi trói và cho phép lộ diện nguyên hình. Thông thường, muốn đối đầu với ác quỉ thì phải nhờ đến thần thánh; nhưng thần thánh chỉ có trong thần thoại hay cùng lắm trong thế giới của những tín đồ tôn giáo nhắm mắt cầu kinh chứ không có trong thế giới bên ngoài của loài người.  Do đó, muốn đối phó với cái xấu con người phải xử dụng cái xấu hơn; muốn khống chế ác quỉ con người phải ác hơn, nghĩa là đồng lỏa với một loài ác quỉ tồi tệ hơn. Đó là thực chất của cái được mệnh danh là chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa xã hội. Các tập đoàn toàn trị ngày nay là hiện thân của thế đối chân nham hiểm đó.  Vì lý do nầy thế giới chỉ đi từ xấu đến xấu hơn, chứ không ngược lại. Nếu theo định luật Gresham đồng tiền xấu thay thế đồng tiền tốt thì những chính sách xấu sẽ từng bước thay thế những chính sách tốt, những chế độ độc ác sẽ từng bước loại bỏ những chế độ nhân bản.  Lịch sử là sự lặp đi lặp lại, nhưng mỗi giai đoạn mới sẽ tồi tệ hơn giai đoạn trước đó.

- Bất luận thế nào, nếu chúng ta trở về lại trái đất thì sau đây là một số viễn tượng khả thể. Một mặt, chúng ta sẽ nhìn thấy một thiểu số tài phiệt phì nộm tự cô lập trong các ốc đảo trong khi bên ngoài thì đầy rẩy bọn lưu manh và nô lệ.  Mặt khác, đám cừu áo đỏ ngự trị trên các ngọn núi cao trong khi trên các thảo nguyên mênh mông là những đàn cừu tạp sắc đang ung dung làm tình, nhảy múa, và gặm cỏ. Con người mà chúng ta hy vọng gặp lại sẽ không thấy xuất hiện ở đâu cả. Cũng như trong thế giới loài người, các giai cấp xã hội trong thế giới loài cừu không được phân chia theo chiều ngang mà theo chiều dọc giống như một phân số với thang trên và thang dưới hay còn gọi là tử số và mẫu số. Thang trên dành cho giai cấp bị trị để họ luôn luôn tin rằng nhân dân làm chủ trong khi thang dưới dành cho giai cấp thống trị để đám bị trị tin rằng bọn thống trị là đầy tớ của dân. Vì nằm ở thang dưới nên trị số thực sự của mẫu số nầy thường là những số ảo để ngụy trang những trị thực, những ẩn số, với những đơn vị ẩn tiếng, ẩn danh, ẩn hình….Giai cấp bị trị ở thang trên được thuyết phục để tin rằng họ có tất cả những tiện nghi vật chất và tinh thần, kể cả độc lập, tự do, và hạnh phúc luôn được rao giảng và tuyên truyền hằng ngày trong khi đó chỉ là những số giả tạo; số thực nằm ở thang dưới, vì thang dưới, theo đúng danh xưng vẫn là mẫu số, nghĩa là cha mẹ, chủ nhân ông, chứ không phải tôi tớ ai cả, trong khi thang trên, cũng theo danh xưng, vẫn là tử số, nghĩa con cái, bị trị, chứ chẳng phải làm chủ ai cả. Tập đoàn cai trị thu tóm càng nhiều của cải xã hội thì mẫu số càng lớn; và mẫu số càng lớn thì trị số của phân số càng đi về số không.  Đó sẽ là kết quả tối hậu của xã hội loài cừu cũng như thế giới loài người bị cai trị bởi các tập đoàn tài phiệt.

 

Thực ra, ngoài giai cấp tướng tá xuất thân từ quân đội Pháp hoặc do Pháp đào tạo mà Lộc nói, chế độ cộng hòa của Miền Nam còn có một thế hệ sỹ quan trẻ có kiến thức văn hóa, xuất thân từ những trường sỹ quan được thành lập sau năm 1954, như Trường Sỹ quan Trừ bị Thủ Đức, Trường Sỹ quan Không Quân, Hải Quân, Chiến Tranh Chính Trị và nhất là Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.... Trước khi bị động viên hay tình nguyện gia nhập vào các trường quân sự nầy, đa số thanh niên đều có một trình độ học vấn trung bình hoặc trên trung bình đồng thời đa số họ có một trình độ ngoại ngữ Anh hay Pháp, hay cả hai, phần nào giúp giải phóng tầm tri thức của họ ra khỏi thế giới hạn hẹp một chiều của ngôn ngữ độc nhất. Đối với một số trường như Trường Võ Bị và Chiến Tranh Chính Trị, chẳng hạn, sau khi được thu nhận, ngoài phần huấn luyện quân sự, các sinh viên sỹ quan được tiếp tục đào tạo về văn hóa phỏng theo chương trình giáo dục của các đại học dân chính. Phần lớn các giáo sư văn hóa ở đây đều tốt nghiệp đại học, có nhiều người đã có bằng cao học. Đa số họ bị động viên để làm sỹ quan trừ bị và vì có bằng cấp đại học nên được điều về các quân trường lớn nầy để dạy văn hóa.  Quân hàm của họ rất nhỏ so với đám sỹ quan phục vụ ở các khối quân sự, tham mưu và bộ chỉ huy cho nên, ở một mức độ nào đó, họ không được sinh viên sỹ quan nể trọng so với đám sỹ quan nhà nghề có quân hàm lớn hơn ở các khối khác vừa nói. Tuy nhiên, giai cấp trí thức khiêm cung tương đối bị bạc đãi nầy trong thời chiến là những nhân tố thầm lặng đóng góp một phần lớn lao cho giá trị nhân bản của đám sỹ quan nhà nghề tương lai. Không ai rõ sau nầy những giá trị đó có đi theo họ trong đoạn đời binh nghiệp của họ hay không, và nếu có thì nó theo họ được bao xa.  Biết đâu cuối cùng tất cả cũng như muối bỏ biển, và số sỹ quan trẻ có căn bản văn hóa cao nầy chung qui cũng bị thẩm thấu bởi giai cấp tướng tá xuất thân từ quân đội Pháp hoặc được Pháp đào tạo, với những mớ huy chương của Pháp đeo đầy trên ngực. Giai cấp đầy quyền uy nầy đang phủ một vùng bóng quá rộng và quá đen lên số phận của nền cộng hòa Miền Nam. Có thể vì cái bóng đen quá lớn nầy nên Bắc Việt đã gán cho quân đội và chính quyền Miền Nam hai nhóm từ "ngụy quân" và "ngụy quyền".  Nếu công tâm mà xét thì nhóm từ "ngụy quân" tỏ ra hoàn toàn hồ đồ.  Ngoại trừ thiểu số đám tướng tá nằm trên chóp bu, phần còn lại trong trong quân đội Miền Nam đều được đào tạo và trưởng thành sau nầy; họ thực sự phục vụ một quốc gia có chủ quyền và có một ý thức hệ chống chủ nghĩa cộng sản mà đại diện là cộng sản Bắc Việt. Về mặt phẩm chất văn hóa, thành phần đó vượt xa bộ máy đánh giặc phi nhân bản và thiếu văn hóa của chế độ Hà Nội. Ngoài lớp sỹ quan trẻ nhà nghề, quân đội Miền Nam có không ít những sỹ quan trừ bị được động viên từ các trường đại học dân chính, đã tốt nghiệp hoặc sắp tốt nghiệp đại học. Phía sau đội quân đó là những nhà khoa bảng đóng góp chất xám của họ cho một trong nền văn minh khả ái nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ, mặc dù sau đó nền văn minh nầy đã bị lịch sử quay lưng. Phía sau đội quân đó là những hệ thống giáo dục tân tiến từ vĩ tuyến mười bảy trở vào và từ bậc tiểu học đến đại học được đào tạo bởi những đội ngủ trí thức tầm vóc thế giới, không sinh ra để rao giảng hận thù và dối trá, không sinh ra để làm công cụ cho bọn tội đồ đấu tranh giai cấp. Miền Bắc không ra sức triệt hạ Miền Nam vì ý thức hệ hay vi lòng yêu nước mà đúng hơn vì lòng ghen tức và mặc cảm trước khoảng cách quá xa giữa một xã hội nhận được ánh sáng của hai nền văn minh Tây Phương cùng một lúc và một xã hội lạc hậu nghèo đói cả hai phương diện tinh thần lẫn vật chất. 

 

Quân đội Miền Nam dứt khoát là đội quân của thiện chống ác. Lịch sử nhiều khi đứng về phía kẻ ác; nhưng sự kiện đó không đủ để nhân loại cũng đứng về phía kẻ ác. Sự ruồng bỏ của lịch sử cũng không đủ để người Mỹ quay lưng với những kẻ mệnh danh là đồng minh của họ và sau nầy trở thành đồng lỏa với kẻ ác. Ngay từ đầu, người Mỹ không mời mà đến. Họ đã đổ xương máu và tiền của vào Miền Nam như một cố gắng chủ yếu phục vụ quyền lợi của nước Mỹ. Sau một thời gian, lịch sử đã chứng minh là lực bất tòng tâm. Họ bỏ cuộc vì những khó khăn và bất lực; và cũng vì quyền lợi quốc gia, họ bỏ rơi Miền Nam. Chính trị là thay đổi. Winston Churchill từng tuyên bố, "Một quốc gia không có kẻ thù vĩnh viễn và bạn bè vĩnh viễn, chỉ có quyền lợi vĩnh viễn." Về sau ở Mỹ có người sửa đổi lời văn đôi chỗ và biến câu nói trên thành của chính họ, "Chúng ta không có bạn bè vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn - chúng ta chỉ có quyền lợi vĩnh viễn." Đó là qui luật khách quan. Lịch sử có thể tha thứ họ ở điểm nầy, nhưng dứt khoát sẽ không tha thứ họ về những đau thương mất mát của quân dân cán chính Miền Nam Việt Nam trong các nhà tù, trại cải tạo, ngoài biển khơi... cùng những tài sản bao đời bị cưỡng đoạt sau khi Miền Nam thất thủ, một thất thủ lý ra có thể qui trách hoàn toàn toàn trách nhiệm cho nhân dân Miền Nam.... nếu không có sự phản bội của Mỹ, bấy giờ được giả định là một đồng minh tin cậy về cả hai phương diện chiến lược và đạo đức. Lịch sử cũng sẽ không tha thứ họ về những trận không tập trải thảm bằng B52 mà nhân dân Miền Bắc gánh chịu vào giai đoạn sắp kết thúc chiến tranh.  Bấy giờ, qua những đổi chác bí mật giữa Nixon/Kissinger và Mao Trạch Đông, Hoa Kỳ đã quyết định bỏ rơi Miền Nam để làm ăn với Trung Quốc. Những trận không tập đẫm máu nầy không phải vì muốn chấm dứt cuộc chiến mà chỉ dùng xương máu của người Việt để nhanh chóng đạt được những mật ước thương mại nói trên với Trung Quốc bằng cách buộc Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu hàng Bắc Kinh và đặt tay xuống ký những mật ước nhượng đất nhượng biển và nhiều điều khoản khác trên lưng dân tộc Việt Nam ... để đổi lấy ... "Đại thắng mùa xuân"(!) do Bắc Kinh bố thí từ địa ngục. Biến cố 30 Tháng Tư 1975 không phải là cái tang cho riêng Miền Nam mà cho chung cả dân tộc Việt Nam. Nói chung, người Mỹ đã xử dụng xương máu của người Việt ở cả hai miền Nam, Bắc để làm món hàng mua bán với Trung Quốc, trước khi thực sự bỏ rơi Miền Nam. Lịch sử phạm phải sai lầm thứ nhất khi áp đặt Miền Nam như là một cái được mệnh danh là đồng minh của Mỹ, trong khi nếu làm kẻ thù của Mỹ thì tốt hơn. Sai lầm thứ hai, nghiêm trọng hơn, là biến Việt Nam thành một vật tế thần cho những quyền lợi của Mỹ, một trò chơi cho những chính trị gia dơ bẩn, vô lương tâm, và khuyển nho. Lịch sử có thể tha thứ người Mỹ về chuyện bỏ rơi Miền Nam nhưng nó sẽ khó lòng tha thứ chuyện họ đâm sau lưng nhân dân Miền Nam.

 

Dưới một góc độ nào đó, nghi án Chiến Tranh Việt Nam có thể được hình dung như một vở kịch ngoại tình với vai một người đàn bà bất trung, một tình nhân nham hiểm, và chồng con đáng thương của bà. Vì quá si mê người tình đê tiện nhưng cực kỳ giàu có, người đàn bà nầy sẵn sàng làm theo những gì người đàn ông sai khiến.

 

Người đàn ông nói:

- Nếu em yêu anh thì anh sẽ cho em mọi thứ em muốn, kể cả nước Tàu mênh mông này và thị trường bao la của nó với hàng tỉ sinh vật đói kém và lạc hậu đang rất thèm muốn thưởng thức đồ Mỹ. Anh sẽ cho chúng nó tiền và chúng nó sẽ cho lại em.

Người đàn bà ngoại tình nói:

- Tuyệt diệu, anh yêu ơi.

Người đàn ông đáp lại:

- Nhưng em biết đấy, anh rất khó chịu về sự hiện diện của thằng chồng và mấy đứa con khốn nạn của em. Chúng ta khó lòng có được hạnh phúc nếu còn chúng nó ở đấy cứ rình rập chúng mình ngày đêm.

- Thế em phải làm gì hở cưng? Thằng chồng và mấy đứa nhóc khốn nạn của em khó mà làm được gì chúng mình một khi em đã bỏ chúng và ra đi với tất cả những gì chúng đang có, kể cả tiền bạc, tiếp tế, sự sản…Anh đừng bận tâm về sự hiện hữu của chúng trên đời; chúng sẽ không hơn không kém là rác rưởi mà thôi.

- Về cái sự sản mà em vừa nói, anh rất quan tâm đến Đảo Hoàng Sa.

- Không thành vấn đề. Anh có thể chiếm nó ngay bây giờ. Nếu em không hành động gì thì không ai khác có thể ngăn cản anh được đâu.

- Được lắm em ạ, nhưng còn một chuyện khác đang làm anh đau đầu.

- Chuyện gì hả anh?

- Kẻ thù của em ở miền bắc đôi khi không chịu tuân theo những đòi hỏi và mệnh lệnh của anh, nhất là trong các vấn đề lãnh thổ dọc theo biên giới chung hai nước.

Người đàn bà ngoại tình trả lời:

- Anh đừng lo. Em sẽ cho chúng nó một bài học thích đáng bằng oanh tạc trải thảm với B52. Chỉ có trời mới sống sót được những trận không tập trải thảm đó. Nhưng, anh biết đấy, đám khốn nạn miền bắc là tay sai của anh mà. Buộc chúng cúi đầu bằng B52 thì dễ như ăn bánh thôi.

Người đàn ông quỉ quyệt nói:

- Cưng ơi, nếu thế thì những gì anh có cũng sẽ là của em hết đó.

-  Tình yếu chúng ta muôn năm!

 

Quyền lợi Mỹ và Tàu muôn năm! Muôn năm đám chính trị gia dơ bẩn, vô lương tri, và khuyển nho! Bi hài kịch ngoại tình trên có thể giúp nêu bật một trong những nghịch lý lịch sử.  Thông thường, những người thua trận thường áp dụng chiến thuật được làm vua thua làm giặc, nghĩa là được ăn cả ngả về không. Đôi lúc họ thu mình hay ẩn mình chờ thời phục hận. Đôi khi họ trở thành nô lệ của kẻ chiến thắng. Đôi khi họ lại chăn gối với kẻ thù cũ. Hai lựa chọn cuối cùng có thể được xem là tốt nhất đối với đám chính trị gia dơ bẩn, vô lương tri, và khuyển nho nói trên. Thực vậy, từ thời Nixon trở về sau, Hoa Kỳ đã đi theo sự khống chế của đám tài phiệt ẩn hình đang say mê chăn gối với những đối tác của họ ở Bắc Kinh, với bàn tay và linh hồn vấy máu, tận tụy phục vụ quyền lợi của Trung Quốc để đổi lấy quyền lợi của chính họ, tăng cường sức mạnh cho một trong những nền độc tài mạn rợ nhất trong lịch sử hiện đại.

 

Như thuở nào, mặt trời vẫn mọc mỗi sáng ở phương đông và lặn vào buổi chiều ở phương tây. Như thuở nào, những hoa đào nổi tiếng ở Washington vẫn duyên dáng khoe sắc ven Hồ Tidal Basin vào dịp Lễ Hội Mùa Xuân khi hoa anh đào nở. Như thuở nào, Trên Đỉnh Rushmore, Richard Nixon và những tổng thống Mỹ sau ông vẫn tiêu khiển thời gian lặng lẽ và hãnh diện ngắm bầu trời xanh của Hoa Kỳ với mây trắng bình yên bay năm nầy qua năm khác, mùa nầy qua mùa khác….nhưng… không nhận ra ngày Tận Số của Hoa Kỳ đang ló dạng nơi chân trời. Như thuở nào, các chính trị gia Mỹ vẫn tiếp tục ba hoa về những giá trị và lý tưởng trong khi không hay biết những gì đang xảy ra ở sân sau của họ. Như thuở nào, trong mắt của người Mỹ và những người trong phần còn lại của thế giới, những định chế chính trị Hoa Kỳ vẫn được xem như là những biểu mẫu của văn minh nhân loại bất chấp những nghi án còn tồn đọng … trong khi không ai rõ những biểu mẫu đó cuối cùng sẽ đưa nền văn minh nầy đi về đâu.

 

Tuy nhiên, mười lăm năm sau, Hoa Kỳ có tỏ rõ một cử chỉ đáng lưu ý theo đó họ đón nhận theo diện tỵ nạn chính trị phần lớn những sĩ quan chế độ cũ, những viên chức chính phủ đã bị nhốt trong trại cải rạo ít nhất ba năm, và những người trước kia làm việc cho các cơ quan Mỹ ở Miền Nam. Mười lăm năm su khi cuộc chiến chấm dứt và sau bao nhiêu năm tù đày! Phần lớn họ đã trở thành sắt vụn. Người Mỹ đã khá tử tế đưa họ ra khỏi một chế độ thù nghịch và trả đũa, và cũng vì thế, họ đã giúp dọn dẹp cho chế độ đó sạch đi những thứ phế thải không muốn thấy. Đó có thể là lý do tại sao chương trình cứu trợ đó được mệnh danh là "Chương Trình Nhân Đạo" gọi tắt là "HO." Đúng, đó là thuần túy nhân đạo; không dính dáng gì đến những thứ như tự do, dân chủ, ý thức hệ; không dính dáng gì đến chính trị mặc dù họ sẽ đến Hoa Kỳ như những người tỵ nạn chính trị trên danh nghĩa! Không bao giờ chương trình đó tượng trưng cho một loại xin lỗi nào cả! Xin lỗi về cái gì, xin lỗi với ai? Tuy nhiên, bên kia cái danh xưng HO là một nghĩa trang bao la của những giấc mơ bị bỏ dở, những mất mát không hàn gắn, những niềm tin bị phản bội, những dự phóng bị thui chột, những tủi nhục không nguôi… không kể những hoài niệm bất tận về một nền văn minh đã mất.  Bên kia cái nhản hiệu HO đó là một cành hoa được ném xuống huyệt mộ từ bàn tay của một người đào huyệt mộ kiêu căng trịch thượng. Bên kia ngôi mồ đó là vô số những linh hồn trôi dạt trên đại dương, vô số những người lính vô danh đã hy sinh đời mình trong cuộc chiến đẫm máu hay sống sót những những cựu chiến binh hay thương phế bịnh bị lãng quên và ngược đãi. Bên kia ngôi mồ đó là không ít những sỹ quan không may mắn được tham gia chương trình HO. Tất cả họ bị đùn đẩy cho trách nhiệm của lịch sử.

 

Mỉa mai thay và tuyệt vời như ảo thuật, kẻ phản bội trở thành ân nhân; nạn nhân trở thành kẻ thọ ân; chủ nợ trở thành con nợ.

 

Bây giờ xin trở lại với từ "Nhân đạo (Humanitarian)" với một số định nghĩa chính của nó.

 

Theo Merriam-Webster: "Humanitarian có nghĩa là sự giúp đỡ hay tiền bạc dành cho người hay quốc gia…nhằm cải thiện những điều kiện sống."

Theo Macmillan Dictionary: "Humanitarian có nghĩa là những cố gắng giúp đỡ những người đang sống trong những điều kiện rất xấu và đang đau khổ vì chiến tranh, lũ lụt, động đất v.v."

Theo Longman English Dictionary Online: "Humanitarian có nghĩa là cải thiện những điều kiện sống và ngăn chặn sự đối xử tồi tệ đối với con người."

 

Nói chung, từ Humanitarian dứt khoát truyền tải một hàm ngụ thóa mạ và hạ nhục khi tham chiếu những con người từng liều mạng sống của họ, ngưỡng mặt cao đầu trên suốt các chiến trường Miền Nam rực lửa và máu, chiến đấu trong tuyệt vọng để cứu vãn một nền cộng hòa bị bỏ rơi. Nó dứt khoát truyền tải một hàm ngụ dè bỉu và khinh mạn khi tham chiếu những lớp người trí thức và những thành viên xã hội ưu tú của một nền văn minh bị cả lịch sử lẫn con người phản bội và ruồng bỏ. Nó dứt khoát truyền tải một hàm ngụ trịch thượng và kiêu căng khi tham chiếu những chiến sỹ quả cảm đó như là thứ rác rưởi cùng quẩn thiếu văn hóa và vô học. Nó dứt khoát truyền tải một hàm ngụ dối gạt và thô bỉ khi chính từ ngữ đó lại được thốt ra từ của miệng của chính những kẻ đã một lần hèn hạ đâm sau lưng những người bạn đồng chiến tuyến với mình.

 

Ở điểm nầy, Hoa Kỳ không nên tiếp im lặng. Sai làm là qui luật của chính trị và của con người nói chung. Con người nào, chế độ chính trị nào cũng có cơ hội mắc phải sai lầm, và ngay cả tội ác; nhưng điểm quan trọng trong các nền văn minh nhân bản là biết nhìn nhận sai lầm của mình thay vì cứ tự cho mình là đỉnh cao trí tuệ, không bao giờ sai lầm và không bao giờ bị đánh bại như các chế độ toàn trị thường xuyên tuyên bố. Người Mỹ dứt khoát đã sai lầm, không phải đã bỏ rơi Miền Nam vì bất lực mà là phạm tội đâm sau nhân dân Miền Nam. Họ dùng xương máu của người dân Miền Bắc để thỏa mãn yêu cầu của Bắc Kinh qua các đợt không tập đẫm máu bằng B52 vào cuối thời kỳ chiến tranh. Những trận không tập dẩm máu đó hóa ra là những tội ác xấu xa nhất và bẩn thỉu nhất chống nhân loại vì không nhằm mục đích chiến thắng cộng sản mà chỉ vị mục đích buộc Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu hàng Trung Quốc để đảng nầy quì gối trước Bắc Kinh và ký kết những mật ước nhượng đất nhượng biển nhằm đổi lấy cái "đại thắng mùa xuân" như một món quà bố thí ô nhục của Thiên Triều. Do đó, ở điểm nầy, một trong những đời tổng thống Mỹ hậu Nixon lý ra đã sớm lên tiếng và chính thức xin lỗi nhân dân Việt Nam ở cả hai miền. Họ có thể im lặng làm ngơ đối với một chế độ chính trị đã sụp độ nhưng họ không thể làm ngơ với một dân tộc bị lịch sử và con người phản bội. Con đại bàng ngày nay không cất cánh được có lẽ một phần là do những món nợ lương tri oan nghiệt kia.

 

Xin lỗi ở đây không có nghĩa là xin lỗi chế độ độc tài hiện nay tại Việt Nam. Xin lỗi không có nghĩa là quay sang ve vãn, lễ độ, nhu nhược, và hỗ trợ chế độ chính trị nầy, một trong những chế độ chính trị lạc hậu và dị hợm đang đi ngược dòng tiến hóa của con người. Xin lỗi cũng không phải là vì quyền lợi ích kỷ của một số tài phiệt Mỹ mà đồng lỏa với một thực tại chính trị thối nát, nô dịch, và tàn bạo đang tước đoạt tự do, dân chủ, và phẩm giá dân tộc Việt Nam. Làm thế chẳng khác nào đổi sai lầm cũ bằng những sai lầm mới tệ hại, nguy hiểm, và sĩ nhục ngàn lần hơn. Nợ cũ chưa trả xong lại chồng thêm nợ mới. Cũng cần nhấn mạnh rằng dân chủtự do được đề cập ở đây không phải là thứ dân chủ và tự do mà các nhà ngoại giao Hoa Kỳ thường xử dụng như những chiêu bài chính trị cường điệu, trống rỗng, và gạt gẫm. Chủ nghĩa duy lợi là một phó sản của xu thế băng hoại nơi một quốc gia chứ không phải là một giải pháp. Chủ nghĩa nầy tựu trung sẽ đẩy Hoa Kỳ sâu hơn vào vũng lầy lịch sử và làm tan rã qui chế hiệp chủng quốc với năm mươi ngôi sao hiện nay. Chủ nghĩa đó có thể chỉ là triệu chứng của thời kỳ xuống đồi nơi một nền văn minh lớn đang đi theo qui luật chung của tạo hóa: cái gì do ý chí con người gồm thâu thì tạo hóa sẽ xé nhỏ ra trở lại. Đế quốc Tần Thỉ Hoàng, Đế quốc La Mã, Đế quốc Anh, Liên Xô cũ v.v. là những bằng chứng. Sắp đến có thể là Đế quốc Tàu hiện tại và Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, biết đâu? Các lục địa trên địa cầu từng bước bị xé ra và chẳng bao giờ gắn liền trở lại. Các thiên hà và các vũ trụ nhỏ vẫn tiếp tục ly tán nhau mỗi ngày một xa hơn. Chính trị của con con người có lẽ cũng không ngoài qui luật đó.

 

Về phía Hà Nội, guồng máy tuyên truyền của Bắc việt hầu như lúc nào cũng muốn người ta hiểu rằng chỉ có họ là yêu nước và chế độ Miền Nam là tay sai bán nước. Nhưng họ có vì dân tộc mà chiến đấu hay vì chủ nghĩa cộng sản, một sản phẩm ý thức hệ đến từ Nga và Trung Quốc? Họ có thực sự độc lập về mặt chính trị đối với hai nước cộng sản nói trên hay không hay chỉ là một công cụ để phục vụ tham vọng nước lớn?  Vã lại, dân tộc và cộng sản là hai phạm trù tương khắc nhau, không thể thỏa hiệp với nhau được. Lý tưởng của người cộng sản là một thế giới không có biên giới quốc gia. Nếu rồi đây chủ nghĩa của họ được lịch sử và thực tế chứng minh là không tưởng thì có lẽ họ vẫn cố duy trì nó trên danh nghĩa để biện minh quyền cai trị độc tôn của họ và tiếp tục phục vụ quyền lợi của giai cấp thống trị. Cũng như Mỹ, Hà Nội có thực tâm muốn Miền Nam có được một chế độ thực sự dân chủ và có chủ quyền chính trị hay không? Đương nhiên là không; vì nếu như thế, thứ nhất, Bắc việt không còn lý do để thu tóm quyền chính bằng cách tiến hành chiến tranh phá hoại và, thứ hai, Mỹ cũng khó lòng thao túng và khuynh đảo chế độ Miền Nam.

 

Vã lại, nếu quả thực chế độ Hà Nội có chính nghĩa và tinh thần dân tộc thì tại sao bao nhiêu người dân Miền Bắc lại ồ ạt xuống tàu đi Nam sau Hiệp Định Genève 1954?  Nếu quả thực chế độ Hà Nội có chính nghĩa và tinh thần dân tộc thì tại sao không những dân chúng Miền Nam mà cả dân chúng Miền Bắc cũng liều mạng sống để trốn ra khỏi nước sau khi họ chiếm được Miền Nam?  Trên thực tế, bộ đội Miền Bắc tiến về các thành phố và tỉnh lỵ của Miền Nam như những đạo binh hung nô tiến về thành, ngỡ ngàng và bối rối như bất ngờ bị đẩy vào một thời đại tiến hóa không dành cho họ; nhưng họ vẫn được nhắc đi nhắc lại họ là đạo quân giải phóng trong khi chính họ là những người được thực sự giải phóng - và chỉ nhờ một phần ánh sáng còn sót lại của một nền văn minh đã ra đi. Nếu quả thực chế độ Hà Nội có chính nghĩa và tinh thần dân tộc thì tại sao họ không nói rõ với người dân Việt Nam những mật ước nhượng đất và nhượng biển mà giới lãnh đạo đảng trước đây đã bị buộc phải ký với Trung quốc để đảng nầy được tồn tại? Họ vì nước hay vì đảng? Nếu quả thực chế độ Hà Nội có chính nghĩa và tinh thần dân tộc thì tại sao họ không để cho nhân dân Việt Nam thực sự làm chủ đất nước của mình thông qua phổ thông đầu phiếu và phân chia quyền lực thay vì cố tình thu tóm quyền lực đó vào một thiểu số toàn trị của đảng cộng sản, và duy nhất chỉ có đảng cộng sản mà thôi? Phải chăng họ vẫn mãi bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi như là bản chất của mọi chế độ độc tài? Và từ đó họ sẽ xử dụng sợ hãi như là vũ khí chủ yếu để kiểm soát xã hội? Theo nhận định của Montesquieu, "Chính phủ độc tài lấy sợ hãi làm nguyên tắc; và không cần có nhiều luật lệ đối với những người nhút nhát, ngu dốt, bị đàn áp."

 

Và đây là chuyện bên lề. Trong những năm trước 1975, có rất nhiều giai thoại về cuộc chiến. Có chuyện bảo rằng những con người Miền Bắc, từ Bộ chính trị xuống đến các nàng trợ lý và chú binh nhì, các sinh viên, học sinh, các thầy cô giáo, đều mơ ước chiếm được Miền Nam để nhìn Thanh Nga trên một sân khấu cải lương, nghe lớp vọng cổ Truyện Tình Lan và Điệp, nghe Tình ca, Ngàn trùng xa cách, Buồn tàn thu, Thu vàng, Hạ trắng, Bến xuân, Tình nhớ, Bóng nhỏ đường chiều, Nửa đêm ngoài phố, những Bài không Tên,....Giai thoại còn bảo rằng họ mơ chiếm được Miền Nam để có ngày được nghe chương trình ngâm thơ Tao Đàn, đọc những thi ca và tiểu thuyết lãng mạn của các nhà văn, nhà thơ Sài Gòn... Họ ước mơ lúc đó con cháu họ sẽ được vào ngồi học tại những ngôi trường mang tính huyền thoại như Đồng Khánh, Gia Long, Trưng Vương, Bùi thị Xuân, Couvent des Oiseaux, Marie Curie, Chu Văn An, Pestrus Ký, Yersin, Jean-Jacques Rousseau... Những ngôi trường kiêu xa đài các đó sẽ giúp con cháu họ đổi đời, từng bước giải phóng họ và con cháu họ ra khỏi thời kỳ văn minh đồ đá, thời ăn lông ở lổ của văn hóa man khai.

 

Có thể tất cả họ không có cùng những giấc mơ giống nhau; nhưng đại để chẳng khác mấy với những giấc mơ của đám hung nô khao khát được tiến về kinh đô để nhìn một chủng loại tương cận cao cấp đã tiến hóa trước mình nhiều thời đại. Sau 1975, thế gian còn truyền tụng rằng một tay bí thư đảng thời đó rất mê Thanh Nga nên vợ của y đã cho đám tay sai thanh toán cô đào cải lương lừng danh nầy của Miền Nam.  Có phiên bản thứ hai cho rằng phe thân Tàu đã ra tay thực hiện vụ giết người nầy vì Thanh Nga đóng vai chính trong vở tuồng Dương Vân Nga với nội dung chống Tàu. Những người ngoại cuộc không rõ phiên bản nào đúng, nhưng có lẽ một trong hai phiên bản đó phải đúng, vì không có phiên bản thứ ba về vấn đề nầy.

 

Hầu như tất cả những đám hung nô đó, khi thực sự chiếm được Miền Nam, đều kinh ngạc và ngỡ ngàng trước nền văn minh mà rồi đây họ sẽ tiêu diệt hoặc tìm cách mô phỏng để xóa đi phần nào nỗi mặc cảm và uất hận. Khi lần đầu tiên nhìn thấy một bồn cầu vệ sinh, chẳng hạn, họ thực sự không biết đó là cái gì. Nhiều tên bỏ cả thức ăn và rau quả vào trong bồn cầu để rửa.  Có một số dùng bồn cầu để nuôi cá. Khi vô tình bấm phải một nút nào đó, tất cả thức ăn hoặc cá đều bị cuốn đi hết. Họ không thể hiểu nỗi tại sao và chỉ còn cách mắng chửi bọn Mỹ Ngụy đã bỏ chạy mà còn quỉ quyệt gài bẩy sau lưng. Thậm chí khi nhìn thấy những thỏi xà phòng thơm họ cứ tưởng là bánh ngọt. Khi được hỏi,

- Ngoài Bắc có TV không hả anh?

họ trả lời ngay,

- Thiếu giống gì; chúng chạy đầy đường đấy.

- Ngoài đó có piano không anh?

- Thiếu giống gì; chúng chạy đầy đường đấy.

- Ngoài đó có xe hơi không anh?

- Thiếu giống gì; rất nhiều xe mới toanh và đắt tiền; chúng chạy đầy đường đấy.

 

Ngược lại cũng có những người thật thà; và thường những người nầy đi vào Nam để tìm thăm thân nhân họ hàng của họ sau khi Miền Nam sụp đổ. Trước khi đi họ tháo rời một bình thủy Trung Quốc và nhét dưới đáy bình thủy một số tiền mặt sau đó ráp bình thủy trở lại như cũ, với ý định mang ủy lạo những người thân trong nam với số tiền hiếm hoi và chiếc bình thủy mà họ trân quí đó. Họ đựợc dạy bảo rằng dân trong Miền Nam đói khổ vì bị bọn Mỹ Ngụy bóc lột đến cùng tận. Tuy nhiên, khi vào đến nơi và tìm đến được địa chỉ nhà, họ ngỡ ngàng không dám bước vào vì cứ nghĩ mình lầm lẫn. Họ tự hỏi, "cơ ngơi như thế nầy mà bảo là lầm than đói khổ sao?" Cuối cùng họ quyết định vào nhà và quả thực đó là nhà của thân nhân họ. Hai bên đều mừng rỡ sau bao nhiêu năm xa cách tính từ năm 1954, ngày mà nhiều người đã lên tàu đi nam lánh nạn. Trong suốt thời gian lưu lại nhà người thân, có lẽ vì hổ thẹn, họ tuyệt nhiên không nhắc đến chiếc bình thủy Trung Quốc và món tiền mà họ lén lút nhét dưới đáy chiếc bình thủy Trung Quốc như một món quà cứu trợ quí nhất trên đời. Họ đã mở mắt và nhận thức được rằng nếp sống ở Miền Nam cao quá sức tưởng tượng, người Miền Nam giàu có sung túc, có đủ các tiện nghi chứ không như họ được tuyên truyền nhồi nhét. So với những tiện nghi đó, chiếc bình thủy mà họ mang theo chẳng khác nào một di vật bảo tàng đánh dấu một trong những thời đại tiến hóa man sơ nhất của loài người. Họ vừa hổ thẹn vừa nhận ra rằng chính họ là những người được giải phóng chứ không phải nhân dân Miền Nam, giải phóng khỏi sự tăm tối văn hóa, xuyên tạc thế giới quan, và thuần túy hoang tưởng về chính thân phận của họ. Lần đầu trong đời họ ra khỏi cái hang động do đám hung nô đã cai quản hơn hai thập niên. Họ bắt đầu có cơ may nhìn thấy được nhiều thứ khác hơn là chính cái bóng mình khi còn trong hang. Và, trước hết vả trên hết, lần đầu tiên họ chứng kiến cảnh ác thắng thiện.

 

Chưa hết, mốt số vào đến nơi chỉ để chứng kiến cảnh vườn không nhà trống; nhưng đây không phải là cảnh vườn không nhà tróng trong tiêu thổ kháng chiến mà là hạ hồi của một hành tinh bị bỏ đi sau khi bị một nền văn minh tinh tinh xâm lăng và chiếm đóng. Họ cũng tự hỏi, cơ ngơi thế nầy sao nỡ bỏ mà đi sau khi đã một lần ra đi cách đây hơn hai mươi năm? Thì ra đất nước Miền Nam bây giờ chẳng qua chỉ như bàn tiệc tàn của Belshazzar với những món dư thừa được bỏ lại trong khi linh hồn của Miền Nam đã vĩnh viễn ra đi, dù sau nầy chế độ tiếp quản có thay vào đó một loại văn minh nào đi nữa. Loài tinh tinh tiếp tục nhảy múa reo mừng và hò reo vì cuối cùng họ đã đến được thiên đường trong mơ ước của họ, không cần biết đó là một thiên đường đã mất, vĩnh viễn mất.

 

Sau khi chiếm Miền Nam có lẽ họ đã dối lòng khi hô hào quét sạch "văn hóa đồi trụy", đổi tên thành phố, tên đường, tên trường học. Nhưng văn hóa Miền Nam không chỉ nằm trong những phương tiện vật lý mà họ ra tay tiêu diệt như Tần Thỉ Hoàng đốt sách chôn học trò.  Những người thắng trận không thể thắng được ưu thế hơn hẳn của văn hóa Miền Nam, không tiêu diệt được những yếu tính cố hữu nơi con người như một sinh vật yếu đuối hữu sinh hữu diệt.  Đó là linh hồn của một dân tộc theo nghĩa là những con người đích thực của khát vọng, hoài bão, tình yêu và đau khổ, dằn vặt và luyến tiếc, thất vọng và hy vọng, hạnh phúc và nổi loạn, con người với những giải bày bất tận về thân phận, dự phóng và đối kháng trước thực tại bất toàn bất túc do xã hội tạo nên. Con người đó không thể là những thể xác vô cảm bước theo tiếng tù và xông trận hay những điệu hát tôn vinh lãnh tụ, tôn vinh đảng cầm quyền, những khẩu hiệu đầy căm thù, phẩn nộ, máu, lửa, và ...lừa dối. Sự hiện diện đích thực của con người không thể có được trong một nền văn hóa phi nhân bản. Như một cố gắng tuyệt vọng, họ tự ý giết chết những ước mơ của mình và vô hình chung đào sâu hơn vết thương lòng nơi những người xa xứ ở bên kia bờ đại dương.

 

Trở lại câu chuyện về quân đội Miền Nam, nếu lịch sử đứng về phía lớp sỹ quan trẻ nhà nghề và có văn hóa nầy thì chính họ sẽ bảo đảm sinh mạng chính trị của Miền Nam. Họ sẽ là những kẻ vừa biết điều binh bố trận lại vừa là hiện thân của ý thức tự do, theo nghĩa một dự phóng tuyệt đối không bị định đoạt về mặt giáo điều chủ nghĩa.  Họ dứt khoát  không như những tên giết người rẻ tiền, mù quáng và cuồng tín vì hận thù giai cấp, vì chủ nghĩa, giáo điều; và đương nhiên họ sẽ là những thành tố hàng đầu của một nền văn minh nhân bản giả định.  Tiếc thay, đám tướng tá cũ vẫn còn dày đặc trên cao; đám sỹ quan trẻ chưa có số lượng đáng kể và phần lớn chưa có quân hàm đủ cao để tạo một ảnh hưởng nào đó cho chiều hướng đi lên của nền cộng hòa còn non trẻ.  Lịch sử không đứng về phía họ và .... không đứng về phía giai cấp những giáo sư văn hóa khiêm cung kia.

 

Đến đây Trang muốn chuyển hướng đề tài để khỏi nghĩ đến dự tính ra đi của con mình. Trang nói với Lộc:

- Mẹ chỉ ước một điều là chúng ta thử về lại Vân Khương, may ra có thể tìm được tung tích gì của cha con hay không.  Mẹ cũng muốn ra Đà Nẳng để tìm thăm hai mẹ con Dũng, biết đâu họ lại có tung tích gì của chú Bài hay của chính cha con.

 

Vào tháng sáu năm 1967, Trang và con đi xe đò để về lại Vân Khương và có thể sau đó ra Đà Nẳng theo ý định của Trang. Khi xe đò sắp ra khỏi Quảng Ngải, Trang bắc đầu nhận ra Châu Ổ, thị trấn cuối cùng của tỉnh nầy trước khi bước vào địa phận của tỉnh Quảng Nam. Sau khi qua cầu Châu Ổ, Trang chăm chú nhìn hai bên đường để nhận diện vùng đất quen thuộc thời sơ tán từ Châu Ổ đến Tam Kỳ. Nhưng sau khi rời Châu Ổ một lúc thì Trang không nhận ra được gì cả và hết sức ngỡ ngàng.  Thì ra vùng đất Ô Vuông phía nam An Tân bấy giờ đã trở thành căn cứ Chu Lai mà Mỹ mới xây dựng năm 1965, náo nhiệt và sầm uất vượt sức tưởng tượng của Trang, mặc dù trước đó Trang đã biết về căn cứ Chu Lai qua báo chí và đài phát thanh. Thị trấn An Tân không còn nhận ra được nữa, nhà cao của rộng, buôn bán nhộn nhịp tưng bừng. Hai cây cầu xe lửa và xe hơi gãy đổ ngày xưa nay đã được xây lại và đứng song song bên nhau trên sông Bến Váng trông thật huy hoàng. Mẹ con Trang xuống xe ngay bên kia cầu An Tân và dự tính sẽ từ từ đi bộ để từng bước dò tìm những người quen biết ngày xưa.

 

Lúc đó vào khỏang chín giờ sáng. Trang mặc một quần tây màu nâu đậm, áo sơ mi ngắn tay bằng vải phin màu lam. Lúc đó trời đã nắng gắt nên Trang bật chiếc dù cũng màu lam để bắt đầu đi bộ.  Lộc mặc một quần tây tergal màu xanh hải quân, áo sơ mi kaki ngắn tay, đầu đội chiếc nón bê rê cũng bằng ka ki. Lộc xách hết hành trang của hai mẹ con để Trang đi tay không. Nhà cửa hai bên đường bây giờ đã hoàn toàn thay đổi.  Đây là một thế giới hoàn toàn khác, không phải Vân Khương ngày xưa, mặc dù vị trí địa dư không thay đổi. Không một vết tích gì có thể gợi lại trong ký ức của Trang về cái cộng đồng du mục của thời sơ tán. Trang thử đoán chừng và tìm đến vị trí của căn nhà mà hai mẹ con từng sống xưa kia. Trang vẫn còn nhớ bên hông nhà của mình là một lối đi hẹp để vào đám khoai mì và tiếp theo là khu rừng miếu Bà Lồi. Trang cũng nhớ phía trước bên kia đường có mấy lùm tre đầy những tổ chim dồng dộc. Bên cạnh những lùm tre là một con đường đất nhỏ khác chạy băng qua đường rầy xe lửa để đi về hướng bãi cát thường bị ngập nước vào mùa đông. Kế bên con đường đất nhỏ nầy là một cây đa nhỏ, cao hơn mái nhà một ít. Cạnh cây đa đó là căn nhà của bà Hương Thám, mẹ của ba người Hộ, Vệ, và Thiết. Sau căn nhà của Bà Hương Thám là nhà của bà Năm bán bánh nậm.  Không. Những lùm tre, những con đường đất nhỏ hẹp, và cây đa thuở nào nay không còn thấy ở đâu cả mà chỉ toàn nhà đúc và nhà đúc san sát nhau với hàng quán bày la liệt, xe cộ chạy ầm ì, nhất là xe của quân đội Mỹ.

 

Trang và Lộc ghé vào một cái quán nằm sát quốc lộ về phía biển, không rõ là quán giải khát hay quán ăn, hay có lẽ cả hai. Trước sân, ngay hai bên cửa ra vào có trồng hai cội hoa sứ cao hơn đầu người. Bên trên là một giàn bông giấy loại lá nhỏ và hoa nhỏ màu đỏ pha tím rục rỡ. Giàn hoa phủ một vùng bóng khá rộng dưới sân trước quán.  Cửa hàng trông khá đồ sộ, bày toàn bia lon, nước ngọt, và thuốc lá ngoại. Có khoảng tám cái bàn chữ nhật sắp thành hai dãy hai bên, mỗi bàn có 4 chiếc ghế dựa bằng gỗ, không bọc nệm, nhưng trông rất sang trọng. Khi hai mẹ con Trang bước vào đã có hai thanh niên ngồi uống cà phê ở bàn thứ nhì bên tay trái đếm từ ngoài vào.  Bốn người đàn ông khác ngồi ở bàn thứ tư cùng dãy đang vừa ăn vừa uống, nhưng có lẽ uống nhiều hơn ăn vì số lượng bia và vỏ bia nhiều hơn số đĩa thức ăn còn dang dở. Một bức bình phong năm cánh bằng nylon loại đắt tiền ngăn khu vực ắn uống với quày tính tiền bên trong nhưng chỉ ngăn nửa phần bên tay trái. Tiếng nhạc Mỹ mở vừa đủ nghe và ánh sáng yếu ớt bên trong khiến cửa hàng êm ả hơn nhiều so với không khí ồn ào bên ngoài.

 

Khi thấy hai mẹ con Trang bước vào, một nữ chiêu đãi viên rất trẻ bước ra chào khách. Nhìn cách ăn mặc và trang điểm của cô người ta đoán biết cô ta không phải người địa phương ở đây. Có thể cô ta chỉ khoảng 25 tuổi, trạc tuổi của Lộc.  Mái tóc uốn đến ngang vai, chiếc củng màu nâu đậm vừa chấm gối và chiếc áo Montague ngắn tay màu rượu chát óng ánh trong đằm thắm đủ nói lên gốc gác thị thành của người con gái đó.

- Thưa mời cô và anh ngồi tạm vào bàn nầy.

 

Quả nhiên cô ta nói giọng Nam. Đó là bàn thứ nhì từ ngoài bước và, phía đối diện với dãy bàn của mấy người đàn ông đang ngồi. Sau khi Trang và Lộc kéo ghế ngồi xuống, cô gái hỏi:

- Thưa cô và anh dùng gì ạ?

Trang đưa mắt nhìn Lộc như muốn chờ đợi con mình lên tiếng trước. Không thấy Lộc phản ứng, Trang đáp lại:

- Ở đây cô có bán thức gì để ăn trưa không?

- Dạ thưa có. Cô và anh muốn dùng nem nướng, cá nướng, bánh bèo, bún bò huế, hay mì quảng? Vừa nói cô vừa nhặt hai tấm thực đơn đặt sẵn trên bàn và trao cho hai mẹ con Trang mỗi người một tấm. Nói xong cô ta quay vào trong như muốn để cho khách hàng có thêm thời gian lựa chọn món ăn.

 

Trang lại một lần nữa quay mặt nhìn con, rồi nhìn vào tấm thực đơn vừa trầm ngâm suy nghĩ khi nghe đến hai tiếng "MÌ QUẢNG". Cơ hồ như lần đầu tiên kể từ khi xuống xe nàng ý thức được đây là đất Quảng, đây là cái vùng du cư ngày nào của hai mẹ con nàng. Thì ra đây là chặng cuối cùng mà ba linh hồn bị hạnh phúc săn đuổi đi về phía trước mà không được phép quay đầu nhìn lại sau lưng. Hạnh phúc cứ ở phía sau ... còn phía trước là vùng không gian bỏ trống... trống mãi cho đến một ngày họ phải chia tay để thu nhỏ hình hài như mục tiêu của những người săn đuổi họ, như những con thú phải thu mình để tránh đường tên của kẻ đi săn. Không. Vùng du cư đó vĩnh viễn không còn trên trái đất.  Nó tượng trưng cho những bước thăng trầm dời đổi của đời họ, những gieo neo vất vả, và cũng chính vì thế mà nó trở thành một thứ tài sản vô giá của một đời người; mất nó sẽ không khác nào mất đi một phần linh hồn. Sự hiện hữu vật lý của vùng du cư ngày nào hãy còn đây nhưng hiện hữu siêu hình của nó đã thực sự bay biến, chỉ còn lại đây một thế giới hoàn toàn xa lạ để biến nàng thành một loại vong thân tuyệt đối. Nàng ngồi đấy như một nhân chứng của phế hưng và chỉ lúc nầy nàng mới nhận ra rằng tiến hóa của loài người, dù theo nghĩa tốt đẹp nhất về mặt vật lý của ngôn từ đó, cũng không hẳn là điều con người mong đợi, ngược lại còn tạo ra những mất mát xé lòng như hôm nay. Nàng vẫn không sao quên được những ngày bão tố đầu đông, không sao quên được những năm dài đói lạnh và cơ hàn, những ngày lửa đạn trút lên đầu từ trên không và những đêm đạn pháo rót vào từ ngoài biển. Nàng đã từng sống những giai đoạn dài, trong đó mỗi khi nấu cơm nàng phải vo gạo riêng và khoai lát khô riêng, xong rồi nàng trải khoai lên trên lớp gạo; khi cơm chín, nàng vớt phần khoai bên trên cho mình và dành phần cơm còn lại bên dưới cho con. Đó là lý do khiến nàng phải vo gạo riêng và khoai riêng; nếu không làm thế thì cơm sẽ trộn lẫn với khoai thì khó mà lọc riêng cơm cho con.  Nàng cũng không quên ngọn đèn dầu tây với ống khói đen ngòm leo lắt trong những đêm giông bão ngồi dạy con học hay ghi tiếp những dòng nhật ký, bên ngoài gió cứ đánh phành phạch vào vách lá, có khi làm rung chuyển cả mái nhà.  Trang cũng không quên những ngày mưa dắt con đi học; hai mẹ con chui trong hai tấm áo che mưa làm bằng lá tơi hay là dừa nước, đầu đội nón lá, chân đi dép mo cau, co ro như thú mẹ và thú con rón rén lê đi trên đồng cỏ. Mưa vẫn tiếp tục rơi trong khi gió bấc cứ từng hồi quật vào mặt hai người. Họ cúi mặt xuống đất mà bước.

 

Đường đến trường có lúc phải đi qua một đoạn bờ ruộng bị ngập nước có rất nhiều đỉa. Trang để con đi trước và bảo con gắng chạy cho nhanh. Đỉa thường lẫn đâu đó trong bờ hoặc các bụi lúa hay lau sậy và chỉ phóng ra khi có tiếng động của người hay súc vật lội qua. Lộc đi trước sẽ khiến lũ đỉa phóng ra và Trang đi sau sẽ là người chịu đỉa cắn nhiều hơn. Sau khi sang được bờ bên kia, hai mẹ con mới cúi người tìm cách gở hết mấy con đỉa ra khỏi hai chân rồi mới tiếp tục đi đến trường. Có những con đỉa  dài cả gang tay, đen bóng và nhầy nhụa. Trong thời gian đầu, chỉ thấy một con đỉa bám vào chân thôi Trang cũng đã hốt hoảng và lạnh người rồi, và sau khi bậm gan kéo được nó ra khỏi da thịt mình và máu chảy từ vết đỉa cắn Trang sợ hãi rơi nước mắt và quay mặt nơi khác để con khỏi nhìn thấy. Sau này có người bảo trước khi đi nên bôi vào chân một ít vôi ăn trầu để đỉa đỡ bám theo. Đúng là thế, nhưng khi nào trời mưa lớn và dai dẳng thì đoạn bị ngập nước dài hơn và sâu hơn thường ngày nên số vôi bôi lên chân từ từ trôi hết và đỉa sẽ bắt đầu tấn công. Ngoài vôi, khi dắt con đi học nàng cầm theo một xấp giấy và trao cho con một xấp.  Trang và Lộc sẽ dùng xấp giấy đó để gở đỉa thay vì gở chúng bằng tay không. Khi nước sâu quá nàng phải cõng con lên lưng để lội qua vũng nước. Đó là cơ hội tốt nhất để lũ đỉa hút máu của nàng nhiều hơn.

 

Trước khi đến thửa ruộng nầy là một trảng cát khá rộng.  Đến mùa nắng vùng cát đó nóng như than hồng vào ban trưa và xế chiều.  Có khi Lộc phải đi học lớp buổi chiều. Khi chưa có dép râu, họ thường đi chân không. Do đó, muốn băng qua vùng cát nóng đó họ phải chuẩn bị mỗi người một tầm giấy bìa hay ván mỏng hình chữ nhật lớn hơn hai bàn chân. Họ sẽ chạy thật nhanh trên cát nóng cho đến khi không chịu nỗi nữa thì vứt miếng bìa xuống rồi đứng lên nghỉ một lúc cho hai chân bớt nóng và người bớt mệt thì lấy miếng bìa lên rồi chạy tiếp. Cứ lúc chạy lúc nghỉ như thế cho đến khi vượt hết bãi cát. Lộc dừng lại lúc nào thì Trang dừng lại lúc đó và nàng luôn luôn để con chạy trước.

 

Và ... bây giờ nhớ đến Sỹ, chồng nàng... Hai mẹ con đang trên đường đi tìm, nhưng ... bám víu vào đâu để mà tìm? Trang nhớ lại lời Sỹ từng nói với mình, "Đừng nghĩ rằng những gì mình cần tìm phải có thì mới đi tìm. Cần cái gì thì đi tìm cái đó, không cần biết cái đó có hay  không. Đi tìm thì sẽ có." Tuy nhiên, đó hãy còn là một bài toán mà Trang chưa tìm ra đáp số, hay có thể không bao giờ tìm ra được. Và đó cũng có thể mơ hồ như một tiếng gọi của cảm thức nổi loạn trước thân phận nơi những con người không bao giờ đồng lỏa với thực tại, đồng lỏa với mặt trời đang có.

 

Bấy giờ cô chiêu đãi trở ra và có ý chờ khách đặt hàng. Thấy mẹ trầm ngâm suy nghĩ trong khi có vẻ như nhìn vào tấm thực đơn, Lộc lên tiếng thay mẹ:

- Mì quảng nấu với nhưng gì vậy cô?

 

Ý Lộc muốn hỏi mì nấu với nhưng thịt heo, thịt bò, cá lóc, hay tổng hợp.

- Thưa, ngoài thịt heo, thịt bò, chúng em có cả nhưng cá lóc, tôm và cua lột.

 

Bấy giờ Trang mới ra khỏi suy nghĩ của mình và hỏi lại:

- Chắc cô có bắp chuối và cải bẹ xanh để ăn với mì chứ?

- Dạ thưa có, ngoài ra cháu có tương ớt Quảng Ngải và ớt xiêm đỏ nữa.

 

Trang quay qua Lộc và hỏi:

- Con muốn dùng gì?

- Mẹ dùng gì thì con dùng nấy.

 

Lộc quay sang cô bán quán và nói:

- Nhưng trước hết cô cho tôi một ly nước cam có bỏ đá uống đỡ khát đã, được không?

- Được chứ anh, còn cô uống gì ạ?

- Cũng thế luôn. Sau đó cô cho chúng tôi hai tô mỳ cá lóc và tôm cua lột nhé.

- Thưa vâng ạ.

 

Vì bấy giờ là mùa hè nên vào giờ nầy trời nóng bức lắm.  Rất may quán ăn có hai quạt trần chạy khá tốt. Bên ngoài tiếng xe cộ qua lại vẫn rộn ràng nhộn nhịp pha lẫn với những tiếng còi inh ỏi liên hồi.

 

Trong khi chờ món ăn lên, Lộc hỏi mẹ:

- Như thế những người trước ở đây có lẽ nay đã đi hết rồi mẹ ạ.  Số người hiện ở đây ngày nay chắc chắn không có một liên quan nào với những gì đã xảy ra cách đây hơn mười năm. Chúng ta không thể có được manh mối gì về cha con trong một cộng đồng hoàn toàn xa lạ như thế nầy. Con có cảm tưởng như chúng ta đã lạc vào một thế giới khác rồi, thế giới của những sinh vật xa lạ và chắc chắn thế giới đó vĩnh viễn rẽ hướng khỏi thế giới cha đang đi. Và ngay cả thế giới mà mẹ con mình đang sống cũng không có chút may mắn giao thoa với thế giới mà cha đang đi, hay có thể đang dừng lại.

- Khi vừa xuống xe sáng nay mẹ đã nghĩ đôi điều giống như con nghĩ. Nhưng mẹ không rõ thế giới nầy xa lạ hay chính mẹ con mình xa lạ, hay có lẽ cả hai.

 

Khi cô gái bán quán mang hai ly nước cam đặt lên bàn, Trang liền hỏi:

- Gần đây có quán trọ nào để ngủ qua đêm không cô?

- Bên nầy cầu thì không có, nhưng bên An Tân, tức bên kia cầu, thì có.

- Trong khu vực bãi cát bên kia đường rầy xe lửa còn ai sống ở đó không cô?

- Cháu nghe nói sau ngày đình chiến họ bỏ đi hết và từ ngày có căn cứ Chu Lai nhiều gia đình từ các nơi khác đổ về đây và làm nhà ở mọi nơi, kể cả vùng bãi cát đó.

 

Đó là ngày thứ ba trong tuần nên khách đến ăn hơi ít; Trang và Lộc muốn ngồi ăn lâu hơn một ít, vì nếu đứng dậy ra đi vào buổi trưa như thế nầy thì họ không thể chịu nỗi sức nóng của ban trưa. Họ chậm rải thưởng thức món mì quảng và sau đó vài món trái cocktail được pha chế bằng trái cây đóng hộp của Mỹ. Những người đàn ông đang ăn uống ở bàn bên cạnh thỉnh thoảng quay sang nhìn hai mẹ con Trang với vẻ tò mò. Có thể họ đoán ra hai người không ở gần đây, nhưng từ đâu đến thì chắc họ không rõ mấy. Rất may là họ vẫn giữ được sự lịch sự tối thiểu và ít khi lớn tiếng như thông thường những người ăn nhậu trong quán vẫn làm thế. Nhờ vậy mà Trang và Lộc ngồi được lâu hơn dự tính.

 

Trong khi ăn mì, Trang nhớ lại quán mì quảng của ông bà Trọng ngày trước ở gần đâu đây, nhưng Trang không thể biết chính xác là đâu, cũng như không biết chính xác vị trị căn nhà cũ của chính nàng. Sau ngày đình chiến, đám con bà Trọng thường đi ra Chợ Hàn Đà Nẳng để mua một số nước ngọt, bánh kẹo và nhiều mặt hàng tạp hóa khác do người Pháp hoặc người Việt chế tạo tại Đà Nẳng mang về bày bán chung bên cạnh món mì quảng đặc sản. Quán của bà rất đắt hàng lúc đó vì tất cả đều lạ đối với đám dân du cư. Lộc và Dũng bấy giờ rất mê loại nước cam vàng đóng thành chai cổ lùn màu xanh đậm và cà rem Tam Kỳ. Không lâu sau, gia đình bà Trọng cũng rời Vân Khương để vào lập nghiệp tại Sài Gòn. Vợ chồng chị Hai Trọng, con gái đầu lòng của ông bà Trọng, tậu được một căn nhà lầu ba tầng ở ngay mặt tiền đường Nguyễn Văn Thoại thuộc Quận Tân Bình.

 

Trang và Lộc ra khỏi quán lúc hai giờ chiều. Như trước, Lộc xách hai túi hành trang của hai người để cho Trang đi không. Trời nóng như nung.  Trang dùng dù trong khi Lộc đội một cái mủ bê rê bằng kaki. Hai người bắt đầu chầm chậm đi bộ về hướng bắc dọc quốc lộ cho đến hết khu phố thì bắt đầu quay trở lại đi bên lề đường đối diện cho đến đầu cầu An Tân. Vừa đi Trang vừa chờ xem Lộc có tìm thấy gì khác lạ hay không, khác lạ theo nghĩa là khám phá được một vết tích gì đó của ngày cũ, của cha nó, mẹ nó, và của chính nó.  Tuyệt nhiên không. Thế giới của họ đã thực sự chết rồi.

 

Trang và con đứng bên bờ sông Bến Váng để nhìn dòng nước vô tình chảy dưới gầm cầu. Trang thầm nghĩ chỉ có dòng nước nầy là không thay đổi, vẫn lên xuống ngày đêm theo thủy triều, vẫn rì rào theo nhịp sóng vỗ và theo tiếng gió chiều của bốn mùa; nhưng nó lại không lưu giữ một vết tích nào của đoàn người du cư thuở nọ. Như ngày nào, mặt sông vẫn trầm mặc in hình nền trời tải đầy mây trắng, in bóng hai hai hàng dương cao ở phía bờ bên kia. Bây giờ, ngoài những áng mây trắng trôi trên nền trời xanh đó, ngoài hàng dương xanh, dòng sông còn phản chiếu hình ảnh hai cây cầu và những chiếc xe vội vã xuôi ngược trên hai chiều, như nhắc nhở nàng rằng chiếc bè du mục ngày xưa vĩnh viễn không còn nữa. Những chiếc cầu kia không còn là những chiếc cầu gãy đổ trên dòng sông mà Lộc và Dũng vẫn thường đến bơi và vớt sứa vào những tháng hè. Đến đây Lộc bất giác nhớ lại bây giờ là tháng sáu và quay sang nói với mẹ:

- Con muốn ra đứng trên cầu để ngắm xem tháng nầy có sứa lên như mười mấy năm về trước hay không.

- Tháng sáu thì chắc là có sứa đấy con.

 

Nói xong hai mẹ con đi sát lề phải của chiếc cầu để đến gần trung tâm cầu và cùng đứng tựa thành cầu để nhìn xuống dòng sông.  Thời du cư, mỗi khi đi học về hay những ngày nghỉ học, Lộc, Dũng một số trẻ trong xóm thường xuống con sông nầy để bơi lội và bắt sứa vào mùa hè.  Sứa mà chúng mang về cho mẹ thường phải có số lượng khá nhiều, đôi khi đến vài ba thúng, vì sau khi chà xát với muối và lá bứa, số lượng sứa cuối cùng có thể ăn được chỉ còn khoảng vài phần trăm so với lượng sứa bắt được lúc đầu. Nhưng ít ra cũng có một món ăn thay đổi trong những ngày khó khăn thiếu gạo thiếu tiền và đồng thời đó cũng là niềm vui nho nhỏ mang về cho mẹ chúng; và mẹ chúng cũng hiểu được điều đó nên vẫn bỏ thì giờ và kiên nhẫn chế biến số sứa mà con mình bắt từ sông mang về. Đôi khi chỉ một đốm lửa nhỏ cuối đường hầm cũng đủ cho con người phải đi hết đường hầm; một chút hy vọng mong manh cũng đủ để con người tiếp tục chịu đựng mà sống; một con còng chôn dưới một bãi cát mênh mông cũng đủ để con người đi tìm nhằm giải quyết cơn đói. Thậm chí bộ xương cá của Hemingway cũng được lão ngư ông đưa vào bờ dù biết rằng nó không còn tượng trưng cho hạnh phúc, dù chỉ là một phần rất nhỏ.

 

Trang nói với con:

- Chúng ta đi qua bên An Tân tìm chỗ trọ và nghỉ ngơi, tắm rửa và thay quần áo đã. Giờ nầy chắc không có xe đi Đà Nẳng.

 

Qua khỏi cầu, Trang và Lộc vừa đi bộ vừa hỏi dò xem quán trọ gần nhất ở đâu. Khi thấy một bà cụ bán nước mía bên đường, Lộc đến hỏi:

- Thưa bác có quán trọ nào gần đây không bác?

- Có, nhà trọ gân đây nhất nằm trên đường đi về hướng biển.

Bà vừa chỉ tay về hướng Chu Lai, ngược chiều với cầu An Tân, vừa nói tiếp:

- Không xa lắm đâu. Các người đi tới ngả ba đàng kia rồi quẹo trái; đi khoảng vài trăm thước thì sẽ thấy nhà trọ nằm phía tay trái, sát với hai cây phượng; đó là đường đi xuống cửa An Hòa.

- Tên nhà trọ là gì bác?

- Tôi không biết nhưng đền gần đó sẽ thấy.

 

Chưa đến mười phút sau thì Trang và Lộc đã đi đến được nhà trọ mà bà già bán nước mía chỉ. Ở góc trái bên trên cửa sửa sắt sơn màu xanh có một miếng bảng màu trắng hình chữ nhật có vẽ chữ "Nhà Trọ An Hòa" bằng sơn đỏ. Họ thuê một phòng với hai giường ngủ.  Thực ra đó là hai cái đi văng chứ chẳng phải hai cái giường.  Hai đi văng đều có treo sẵn mùng màu nhà binh nhưng không thả xuống. Nhà trọ chỉ có một nhà tắm chung.  Không có nước máy mà phải dùng nước giếng được chứa sẵn trong một lu lớn. Mọi thứ khác như khăn tắm và xà phòng đều do khách tự lo liệu. Lộc vào tắm xong và gọi mẹ.

 

Sau khi ra lại quốc lộ một để tìm quán ăn cơm chiều, họ trở về quán trọ. Trước khi đi ngủ họ hỏi người chủ quán trọ cách thức đón xe đi Đà Nẳng.  Bà chủ quán cho biết:

- Buổi sáng từ tám giờ trở đi có rất nhiều xe đò từ Sài Gòn, Nha Trang và Quảng Ngải chạy ra Đà Nẳng. Thường những xe nầy ngừng lại bên nầy cầu An Tân để rước thêm khách đi Tam Kỳ hay Đà Nẳng, nếu còn trống chỗ. Sáng mai cô cứ ra đầu cầu đứng chờ một lúc sẽ có xe đến. Hai người thì may ra sớm có xe đi.

- An Tân không có bến xe đi Đà Nẳng sao bác?

- Trước kia có những sau nầy họ đã dời xa bên kia cầu rồi. Nhưng xe của bến đó hay rước khách dọc đường nên mất thì giờ lắm; còn xe lớn từ trong ra không rước những khách gần Đà Nẳng; Chu Lai là trạm dừng cuối cùng của họ.

- Còn muốn đón xe đi về Sài Gòn thì làm sao bác?

- Trước đây những xe suốt từ Đà Nẳng vào Sài Gòn không ghé lại đây rước thêm khách, nhưng từ ngày có căn cứ Chu Lai, các xe suốt đó thường ngừng lại bên kia cầu để rước khách đi Nha Trang hay Sài Gòn nếu còn chỗ trống. Nhưng nếu đi Sài Gòn thì nhớ nhìn thấy có ghế trống hãy lên; ngồi dưới sàn xe hay ghế xếp thì đừng lên, và phải chọn đúng xe đi Sài Gòn, nếu không thì lại phải sang xe phiền lắm.

- Bác có biết hiệu xe nào đi suốt Sài Gòn không?

- Tôi chỉ biết hiệu xe Phi Long Tiến Lực thôi.

- Hai mẹ con tôi lúc ra cũng đi xe đó.

 

Thế là họ yên tâm đi ngủ. Sau khi bỏ mùng xuống, Lộc hỏi mẹ:

- Mẹ có biết địa chỉ của Dì Oanh ở đâu không mà đi tìm?

- Khi rời Vân Khương, Dì Oanh chỉ nói với mẹ là dì ấy sẽ đến ở tạm nhà của một người cô ở đường Ông Ích Khiêm, Đà nẳng. Dì ấy còn nói thêm người cô ấy có một sạp bán tạp hóa ở Chợ Cồn. Mẹ nghe thế biết thế thôi chứ không hỏi thêm làm gì, vi lúc đó bối rối trăm công ngàn việc còn đầu óc đâu mà nghĩ xa hơn.

- Nhưng Dì Oanh có nói tên của người cô đó là gì không hả mẹ?

- Mẹ cũng không hỏi.

- Nhưng sạp bán tạp hóa thì biết bao nhiêu sạp mà tìm?

- Thì chúng ta cử thử xem sao.  Ít ra mẹ con mình nhân cơ hội nầy ghé thăm Dì Liễu của con.

 

Liễu là người em bà con cô cậu với Trang ở đường Hoàng Diệu, Đà Nẳng. Trang biết địa chỉ, nhưng trước khi đi Trang không báo cho Liễu, vì lúc đó Trang không chắc có tiếp tục đi Đà Nẳng hay không sau khi đến Chu Lai. Lộc hỏi tiếp:

- Dì Liễu có biết mẹ con mình sẽ ra Đà Nẳng không hả mẹ?

- Mẹ không báo trước cho Dì Liễu, nhưng mẹ hy vọng dì ấy có mặt ở Đà Nẳng vì mẹ nghe nói Dì Liễu làm ở Bưu Điện Đà Nẳng nên chắc là ít có cơ hội đi xa nhà.

- Mẹ à, không có gì chắc chắn cả đâu. Nếu mẹ không báo trước Dì Liễu thì tốt hơn đừng đi.  Tin tức về Dì Oanh không rõ ràng và Dì Liễu cũng không rõ ràng thì vất vả lắm nghe mẹ. Mẹ có rành về thành phố Đà Nẳng không?

 

Nghe Lộc hỏi đến đây Trang cảm thấy như bị chiếu bí nên bắt đầu suy nghĩ. Trong thời kỳ trước năm 1945, gia đình Sỹ thuộc số những gia đình khá giả nhất trong làng Đông Yên ở Duy Xuyên nên Sỹ và Phong, em trai của Sỹ, mỗi người có một chiếc mô tô và đi Hội An, Vĩnh Điện, Đà Nẳng thường xuyên. Họ vừa đi làm ăn vừa đi chơi.  Thỉnh thoảng Sỹ có đưa Trang đi Vĩnh Điện, Hội An, và Đà Nẳng, nhưng Trang đâu biết gì nhiều về Đà Nẳng, chỉ biết đi theo Sỹ mà thôi. Vã lại từ thời đó đến nay đã hơn hai mươi năm rồi, biết bao nhiêu thay đổi. Khi Lộc đột nhiên hỏi câu nầy, Trang bắt đầu bối rối, nhưng cuối cùng nàng trả lời với nỗi bực dọc và chán nản:

- Mẹ không rành.

 

Cơ hồ như cùng với câu trả lời có vẻ hờn dỗi và trỉu nặng đó, nàng đã buông thả nỗi thất vọng và buồn bã của ngày hôm nay tại Vân Khương và sự bất định của đoạn hành trình còn lại, tựa như buông một viên sỏi xuống dòng sông. Thực sự đó không phải là một viên sỏi mà là một tảng đá ngàn cân vẫn chưa rơi hẳn xuống được theo câu trả lời mệt mỏi đầy chán nản đó. Và cũng dường như với câu trả lời gỏn lọn đó, nàng muốn trút một phần chán chường lên con mình đồng thời như muốn trừng phạt câu hỏi hơi cứng cỏi của nó. 

 

Thấy mẹ mình bất ngờ đổi giọng, Lộc liền nói:

- Con xin lỗi mẹ.

- Con không có lỗi gì cả.  Tất cả là do mẹ.

 

Nói xong Trang xoay người vào bên trong, quay lưng về phía giường của Lộc đang nằm. Câu nói của Sỹ vẫn còn đâu đây và cứ mãi ám ảnh nàng,

- "Đi tìm thì sẽ có. Không đi thì không bao giờ đến."

 

Nàng đã đi rồi đấy. Tư tưởng nàng tiếp tục trôi đi theo dòng độc thoại.

- Đi đâu nữa bây giờ? Nàng thầm nói một mình.

- Vô lẽ chỉ mới một đoạn đường ngắn từ Sài Gòn đến Chu Lai thôi mà đã muốn chùng bước hay sao?

- Chẳng lẽ đi cùng trời cuối đất?

 

Nàng cũng biết rằng thế giới nầy có thể quá nhỏ so với thế giới mà Sỹ đang đi, và chiều không gian mà hai mẹ con nàng xuôi ngược từ thời du cư đến nay không hẳn là chiều không gian trong thế giới của Sỹ. Như thế thì đi nữa để làm gì? Vô lẽ lại đi theo một nhản giới mơ hồ và vô tận?  Có thể cuối cùng Trang và Sỹ sẽ mãi mãi đi trong hai vũ trụ không bao giờ có một phần giao thoa dù rất nhỏ. Phải chăng những năm dài du cư đó đã thực sự đưa họ vào những chân trời không gian vô định mà chính họ cũng không ý thức được nên nàng vẫn mặc nhiên xem thế giới Sỹ đang đi là có thực, một thế giới vật lý cũng có ngày và đêm, có bốn mùa thay nhau đi qua và có sự hiện diện của con người, có quá khứ, tương lai, hiện tại, có đau khổ và chết chóc, có hy vọng và ngày mai.... Có thể đoạn đời du cư đó đã thực sự biến thế giới của họ thành một thế giới phóng ảnh từ một biên thùy không gian xa xăm nào đó.  Có thể phạm trù du cư đó đã trở thành một yếu tính đi liền với định mệnh của Sỹ, Trang, và Lộc. Biên giới giữa ảo và thực không còn nữa hay ít nhất cũng đã lẫn lộn vào nhau, và biên giới giữa thiện và ác có lẽ cũng thế. Cũng có lẽ vì thế mà thế giới của Sỹ có thể sẽ dễ dàng được chấp nhận hơn. Còn thế giới của Trang và Lộc thì sao đây?

 

Sáng hôm sau họ đón xe về lại Sài Gòn. Sau đó khoảng một tháng thì Lộc từ biệt mẹ ra đi. Đúng vào ngày cha ra đi trước đây mười bảy năm, Lộc ra đi ngày 15 tháng bảy năm 1967. Mười  bảy năm trước Trang đã nhìn chồng mình ra đi; bây giờ đến lượt nhìn con ra đi. Vũ trụ cứ tiếp tục xoay vòng nhưng điểm đến và điểm đi không bao giờ trùng lắp với nhau. Cuộc sống con người cũng xoay vần nhưng đau khổ và hạnh phúc không bao giờ lặp lại giống nhau. Những biến cố thì không bao giờ lặp lại nhưng nội dung và ý nghĩa của chúng có thể có một phần nào đó giống nhau. Cảm thức giống nhau trong hai lần từ biệt nầy là sự chối bỏ của con người trước xã hội. Sự chối bỏ của Sỹ trong việc lựa chọn theo Pháp hay theo Việt Minh sau nầy phản ảnh phần nào sự chối bỏ của Lộc trong việc lựa chọn chế độ Sài gòn và chế độ cộng sản.

 

Trang tiếp tục sống một mình tại căn nhà trên đường Trương Tấn Bửu, sau nầy đổi tên thành đường Trần Quang Diệu. Tiệm thuốc tây ngày trước không còn nữa nên Trang xin một chân bán vé ở rạp chiếu bóng Minh Châu trên đường Trương Minh Giảng. Bấy giờ Trang đã gần năm mươi tuổi nhưng trông già hơn tuổi rất nhiều, trán nàng bắt đầu có một số đường nhăn, hai má khô đi hơn trước rất nhiều. Người mập hơn đôi chút so với lúc còn ở Vân Khương và nước da không còn trắng nhợt như ngày xưa. Trang đã uốn óc trước khi xin vào làm ở tiệm thuốc tây lúc mới xuống Sài Gòn. Hằng đêm, ngoài đọc sách, nàng vẫn tiếp tục viết nhật ký để đỡ nhớ chồng. Nàng đọc rất nhiều, nhất là những sách học ngoại ngữ như Anh, Pháp, Đức...Trang đọc nhiều tiểu thuyết Pháp và Anh, vừa để trau dồi kiến thức vừa để trau dồi hai thứ ngoại ngữ nầy. Trang thức rất khuya, và chỉ lên giường sau khi Lộc đã đi ngủ.  Về sau, trong những năm cuối đại học, Lộc thường phải thức quá nửa đêm và không muốn mẹ cũng làm thế nên Lộc thường nói đi nói lại với Trang nhiều lần:

- Mẹ à, mẹ không thể thức khuya như vậy được đâu.  Đừng bì với con. Con phải học và phải thi chứ mẹ có phải học phải thi đâu mà hành xác như vậy?  Mẹ có biết mẹ đã già rồi không? Vã lại mẹ còn phải đi làm nữa mà?

- Mẹ không muốn con ngồi học một mình và thức một mình trong đêm.

-Nhưng con lớn rồi mà mẹ!

 

Bất giác nàng nhớ lại thời du cư đưa con đi học và ngồi cạnh con trong những đêm mưa bão.  Sau nhiều lần Lộc nói như vậy, Trang không còn thức quá nửa đêm. Nhưng từng đêm, tuy đã tắt đèn ngủ và nằm nhắm mắt trên giường, nàng vẫn biết giờ nào con còn thức và giờ nào con đi ngủ. 

 

Khi còn Sỹ và Lộc cũng như bây giờ khi sống một mình và ăn uống một mình, nàng vẫn giữ thói quen ăn đũa hai đầu, một đầu để gắp thức ăn trong các đĩa phục vụ chung cho mọi người, hay còn gọi là đầu cộng đồng, đầu kia dùng để ăn riêng, tức là đầu cá nhân.  Cũng như Trang, Lộc rất thành thạo và tôn trọng lối ăn uống nầy.  Khi được mời đến nhà bạn bè để ăn hay tiệc tùng, Lộc vẫn giữ tập quán đó.  Lúc đầu, hầu hết bạn bè và gia đình của họ rất ngạc nhiên, nhất là những gia đình trước đây không sống trong cộng đồng du cư ở Quảng Nam hay Quảng Ngải.  Lộc thành thực giải thích với họ do đó họ không còn thắc mắc nữa nhất là khi họ nghe Lộc nói tiếng Quảng Nam thực sự. Cả Trang cũng vậy, nhưng Trang thì ít có dịp ngồi ăn chung với những người xa lạ, ngoại trừ một số bạn bè thời sơ tán hay gốc ở Quảng Nam như Ánh và gia đình của Ánh. Cả gia đình của Ánh và chính Ánh không biết ăn đũa hai đầu, nhưng họ không xa lạ mấy với lối ăn uống nầy của những người từng sống trong vùng sơ tán. Mặc dù họ không ăn đũa hai đầu nhưng họ rất khâm phục tập quán đáng yêu, cao quí, khả kính và có một giá trị độc sáng về mặt văn hóa đó. Nó biểu hiện sự cộng thông kín đáo với tha nhân, biết tôn trọng an sinh và riêng tư của những người ngồi chung bàn, chia xẻ những quan tâm và quyền lợi trong một trật tự xã hội bất thành văn. Nó cũng cho thấy một đường ranh trong chiều hiện hữu của từng cá nhân, ý thức sự cô đơn trong thân phận từng người vốn không bao giờ có thể san sẻ với nhau, cảm nhận được vùng bí ẩn với những hướng trình và lẽ sống khác biệt nhau về ngày mai đang đi tới, cảm nhận được những đau khổ tiềm ẩn trong dĩ vãng của từng người.

 

Trong tâm thức của những người du cư luôn luôn có hai không gian: một không gian hướng ngoại và một không gian hướng nội. Không gian hướng ngoại là vùng không gian mà họ nhìn thấy mỗi ngày trong thời du cư khi cánh cửa lá được chống lên và mở ra không đến chín mươi độ.  Đó là không gian của ngờ vực và thù nghịch nhưng đồng thời cũng là không gian của hy vọng, cộng thông, và mơ ước. Trên một phương diện nào đó, đầu đũa cộng đồng tượng trưng cho phần thế giới đó.  Còn đầu đũa cá nhân chính là không gian hướng nội. Đó là tổng hợp của không gian tâm linh và vật lý được lưu giữ dọc theo hành trình của người du cư, không gian của hoài niệm, đau thương và mất mát. Không gian đó là một vũ trụ đơn độc của những lữ hành đơn độc đến từ chiếc bè du mục của chín năm lưu đày. Dù bên trong hay bên ngoài, thế giới mà họ đã, đang và sẽ trải nghiệm vẫn thường xuyên hiện lên như một căng thẳng, dằn vặt, và mâu thuẫn không thể giải quyết và không thể thỏa hiệp được.

 

Đó cũng còn là một trong những hành trang khó bị đánh rơi, được họ mang theo trong cuộc hành trình từ thời du cư, một thứ hành trang hiếm thấy trong thế giới mà họ bước vào từ sau ngày đình chiến. Trên căn bản, hai chiếc đũa và hai đầu đũa tượng trưng cho hai thái cực theo nghĩa vật lý và tâm lý, siêu hình và hữu hình, cụ thể và trừu tượng, đau khổ và hạnh phúc, thiện và ác, tốt và xấu, đúng và sai, cá nhân và xã hội, chân lý và lừa đảo.... Trong phần chung cũng như trong phần riêng, hai thái cực kia không thể tách rời nhau được. Đối kháng và thách thức là nguyên tắc của hợp quần xã hội cũng như nổi loạn và bất đồng là nguyên tắc của tự do. Sai lầm là qui luật của chính trị chứ không phải ngoại lệ cũng như hoài nghi là qui luật của mọi niềm tin tôn giáo, triết học, và chính trị. Cá nhân đôi khi là phương tiện của xã hội và đôi khi là cứu cánh. Trang không rõ đến ngày nào nàng sẽ quên đi thói quen ăn đũa hai đầu. Có thể nàng sẽ không bao giờ rời nó, vì đó là một phần thân phận của nàng, của chồng nàng, và của con nàng.

 

Trang cũng giữ chế độ ăn uống ngày hai bữa như thời du cư, không ăn sáng.  Mặc dù không theo một tôn giáo nào rõ rệt, thỉnh thoảng Trang đi chùa vào ngày mồng một và ngày rằm mỗi tháng. Vào những ngày nầy, dù không đi chùa thì Trang cũng vẫn ăn chay. Lộc cũng theo mẹ ăn chay và đi chùa vào ngày rằm và mồng một, nhất là vào đêm giao thừa mỗi dịp Tết Nguyên Đán. Suốt thời du cư họ không có được thứ hạnh phúc đó.  Ăn chay và đi chùa hầu như là phương cách hoài niệm hữu hiệu nhất về thời cùng khổ và để nhắc nhở họ rằng đời sống không đơn thuần là hai hoặc ba bữa cơm mỗi ngày. Cho đến ngày ra đi, Cũng như mẹ, Lộc không biết dùng cà phê hay thuốc lá; rượu bia tuyệt đối không. 

 

Mấy năm đầu sau khi xuống Sài Gòn, mỗi sáng Trang chở con bằng xe đạp đến tiệm thuốc tây rồi sau đó giao xe đạp cho con đi học; chiều lại sau giờ học Lộc ghé lại tiệm để đón mẹ về.  Thỉnh thoảng vào những ngày nghỉ, Trang  đạp xe đến thăm Ánh ở đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận. Ánh và Trang quen nhau từ hơn bảy năm nay khi Trang còn đứng bán ở tiệm thuốc tây.  Lúc đó Ánh thường đến mua thuốc ở tiệm Trang đứng bán hàng, và quen thân nhau khi nhận ra cả hai đều cùng quê Duy Xuyên, Quảng Nam.  Ánh có gia đình và ba con.  Cha mẹ của Ánh gốc ở Duy Xuyên, nhưng đã di chuyển xuống sống ở Hội An từ trước năm 1945.  Khi cuộc chiến xảy ra, gia đình Ánh không đi tản cư và tiếp tục sống ở Hội An cho đến năm 1960, lúc đó tất cả dời vào Sài gòn. Ánh và cha mẹ theo đạo Tin Lành. Những năm gần 1975, Ánh phục vụ như một y tá tại một bệnh viện của Mỹ gần trước cổng Phi Long của Phi Trường Tân Sơn Nhất.

 

Vào một đêm tháng tư năm 1975, Ánh đi xe Vélo Solex đến nhà Trang và nói với Trang:

- Gia đình tao ngày mai sẽ vào phi trường để di tản; nếu mày muốn đi thì thu xếp đến nhà tao ở để cùng đi một thể.

 

Trang không trả lời ngay.  Thay vì thế, nàng đi vào bếp làm hai ly nước trà nóng, một cho mình và một cho Ánh. Khi mời Ánh uống trà, Trang nói với Ánh:

- Uống tí trà đi đã. Đó là nước chè tươi do người bà con ở Tam Kỳ gởi vô cho tao. Thử đi.

- Trời ơi, lúc nầy mà mầy còn đứng đó nói đến những chuyện chè với trà được à? Chết đến nơi rồi mầy có biết không?

- Ánh à, tao đã ở với chúng nó gần mười năm trong vùng du cư rồi. Nếu bây giờ ở lại tiếp tục sống với chúng một lần nữa thì có sao? Cùng lắm cũng đói khổ như thời du cư thôi, có chết đâu? Cám ơn mầy nhiều, nhưng tao không muốn đi đâu cả.

- Không ai trên đời nầy lại muốn chui vào địa ngục hai lần, mầy biết không? Lần đầu là vì mày và gia đình mầy không có sự lựa chọn, nhưng bây giờ thì khác. Mầy tưởng là mầy không trả một giá nào cho chín năm du cư đó sao?

- Ở đâu thì cũng phải trả giá cả Ánh ạ. Trong thời du cư tao đã mất chồng tao.  Bây giờ tao lại mất con tao. Cái mà mầy nghĩ là lựa chọn đó thực ra không phải là lựa chọn đâu, mà chỉ là một thừa số của một bài toán chia, dù thừa số đó có vẻ lớn hơn cả thương số dưới mắt nhiều người, và có lẽ thậm chí dưới mắt của cả mầy nữa. Đối với tao sự ra đi lúc nầy là một ẩn số lớn hơn cái ẩn số mà tao đã mang theo trong hồn hơn mười năm nay, từ khi chồng tao ra đi. Tao cầu chúc mầy và gia đình mầy an toàn mà ra khỏi nước, đừng hờn giận gì tao.

 

Thế giới của nàng không phải là cái thế giới của người đàn bà đơn độc nầy. Ở một chiều không gian nào đó, nàng còn có Sỹ và Lộc. Và thế giới của Sỹ và Lộc dứt khoát không phải là ở những miền đất xa xôi mang những biểu số địa dư và vật lý có thể truy cập được bằng phi cơ hay tàu biển. Do đó, đi hay ở thì cũng cùng một nghĩa: họ không thuộc về một thế giới nào có sự hiện diện hằng ngày của mặt trời mọc vào buổi sáng ở phương đông và lặn vào buổi chiều ở phương tây, có biên giới chính trị của con người.  Sự lựa chọn của họ không ở bên nầy mà cũng chẳng ở bên kia, vì nỗi bất hạnh đều là vô tận từ hai phía.

 

Từ sau chuyến đi Chu Lai cho đến ngày Lộc ra đi, và mãi đến bây giờ, Trang không tìm ra tung tích gì của hai mẹ con Oanh. Cũng có thể họ vẫn còn sống và cũng có thể họ đã chết, một người hay cả hai. Và biết đâu Dũng lại theo vết cha đi để tạo riêng cho mình một vũ trụ; và vũ trụ đó, bây giờ hay mai sau, có thể song song với vũ trụ của cha Dũng, của cha Lộc, và của chính Lộc.  Những vũ trụ như thế có thể vĩnh viễn song song với nhau mà cũng có thể giao thoa với nhau một ngày nào đó, tại một vùng không gian nào đó; nhưng chung qui đó là vũ trụ của những người đi săn mặt trời.

 

Lá thư từ quá khứ

 

Vào giữa năm 1984, tức chín năm sau ngày Miền Nam sụp đổ, Trang về lại quê hương của nàng ở Duy Xuyên, Quảng Nam, sau khi bán căn nhà ở đường Trần Quang Diệu. Nhờ vào số tiền nầy Trang đã gởi trả lại ông Hương Bảng,  một người cậu của Sỹ ở Đông Yên, số tiền ông đã tử tế ứng ra mua vật liệu để xây cất một gian nhà nhỏ ngay trên nền nhà cũ của song thân Sỹ tại làng nầy. Đó cũng là nơi mà Sỹ, Trang, và Lộc đã sinh sống trước khi chạy loạn vào năm 1945.

 

Trang còn nhớ thời gian trước năm 1945, trên khu đất đó là một căn nhà ngói ba gian rộng lớn, khang trang và bề thế, với một nhà bếp rời ở sân sau.  Nền nhà rất cao so với mặt đường với ba tam cấp năm bậc bằng đá đi vào ba gian. Vườn rộng mênh mông với giậu chè tàu phía trước, hai hàng tre cao hai bên, và bức tường đá phía sau chạy song song với hàng cau cao ngất, một số cây làm giàn cho những dây trầu xanh biếc. Bên trong vườn có trồng nhiều mít, ổi, mãng cầu, chanh, quít, chuối, đu đủ, nhưng mít chiếm phần lớn diện tích. Ở hai góc vườn sau là những cội sứ lớn um tùm và cao khoảng nửa chiều cao của mấy cây cau. Cạnh nhà bếp là một giàn dạ lý đưa hương thơm nồng nàn trong những đêm mùa hạ. Hai cội ngọc lan chiếm ngự hai góc vườn phía trước. Hai hàng đinh lăng thấp và phẳng chạy thẳng tắp dọc hai bên lối đi chính từ cổng nhà đến sân trước, từ đó hàng chục chậu dành dành chạy dài sang hai bên. Rặng sầu đông gồm khoảng chục cây trải đều hai bên cổng nhà dọc theo bên ngoài giậu chè tàu.

 

Khu đất đối diện nhà bấy giờ không có nhà ở mà chỉ có mấy lùm tre ở một đầu và một cội đa già ở đầu kia. Con đường cát pha trước nhà đủ rộng cho một xe bò đi qua, hai bên cỏ mọc hoang tàn. Những ngày mưa to và lũ lớn tất cả đều chìm dưới nước, kể cả con đường, sân trước, sân sau, và vùng đất trước mặt nhà bên kia đường. Chỉ có căn nhà ba gian là không bị nước tấn công, vì ở trên cao. Nền nhà bếp vì thấp hơn nên cũng bị ngập nước vào những ngày nầy. Cũng vào những ngày nầy, khi chiều xuống và suốt canh đêm, tiếng nhái lênh đênh lấp đầy không gian của ngôi làng heo hút đang còn vắng tiếng đạn bom. Tiếng còi tàu vẫn ngày ngày vọng lại từ cầu Chiêm Sơn như tiếng gọi từ một thế giới mà loài người chưa đi đến được. Mây xám vẫn vần vũ trên đỉnh Non Trượt như báo hiệu ngày bình yên rồi đây sẽ qua đi.

 

Khi lần đầu trở về quê cách đó năm năm, Trang không khỏi sững sờ nhìn cảnh vật đổi sao dời. Không còn một dấu vết gì của căn nhà địa chủ ngày xưa. Dậu chè tàu đã ra đi và nhường chỗ cho những bụi gai không tên, nho hoang, cỏ tranh, và cỏ . Nền nhà vẫn còn đó nhưng căn nhà ba gian và nhà bếp kia đã vĩnh viễn ra đi. Cây trái trong vườn đã tàn lụi đâu mất từ lâu. Thay vào đó là hai hố bom, một ở góc trái của vườn sau, một ở ngay bên phải của nền nhà. Ông Hương Bảng cho biết hai hố bom nầy không có trong thời chiến tranh Việt-Pháp mà có trong những năm sau cùng của Chiến Tranh Việt Nam, nghĩa là cuối thập niên 1960.

 

Bấy giờ là tháng hai dương lịch năm 1980 nghĩa là một ít lâu sau Tết Canh Thân. Cả hai hố bom hãy còn như hai ao nước đục đầy những rong rêu và mực nước đã rút xuống cách mặt đất khoảng một thước. Nòng nọc lố nhố khắp mặt ao. Bầy chuồn chuồn lân la trên mấy ngọn lau sậy ven bờ. Mặt đất nổng chung quanh bờ ao phủ đầy cỏ dại, sỏi đá, cành khô, mảnh bom, gỗ mục, và đủ thứ rác. Hố bom phía hông nhà khá lớn nên đã phá vỡ một phần nền nhà phía tay phải. Cội đa bên kia đường đã đi theo chiến tranh cùng với mấy khóm tre ven lộ. Ông Hương Bảng cho biết cây đa và mấy khóm tre đã bị cháy rụi vì bom na-pan trước năm 1954.

 

Ông Hương Bảng và ba người con trai đã tình nguyện và tự tay giúp xây lại căn nhà cho Trang, gần như không thuê mướn thợ ngoài. Nhờ vậy Trang chỉ tốn tiền vật liệu mà thôi. Trước khi tiến hành thi công cho căn nhà, họ đã lấp hai hố bom, phá hẳn vách tường đá đã hỏng phía sau lưng nhà. Sau khi xây cất xong căn nhà họ lập hàng rào chung quanh bằng gạch lốc. Riêng phía trước, họ trồng lại hàng chè tàu chạy dọc sát rào gạch lốc. Hàng chè tàu con nầy chỉ mới cao khoảng nửa thước và hy vọng vài năm sau nó có thể thay thế hàng chè tàu đã có trước chiến tranh. Nền nhà bấy giờ đã thu nhỏ lại sau khi cắt đi phần bị hố bom phá vỡ. Gian nhà bếp trước kia không được xây lại và toàn bộ căn nhà mới xây lại chỉ có một gian duy nhất, lợp ngói mấu và tường gạch, cửa gỗ, và nền gạch bông. Sân trước cũng bị thu nhỏ lại và tráng xi măng. Cổng trước làm bằng sắt và sơn màu xanh lam sậm. Hai hàng đinh lăng cũng được trồng lại. Dảy dành dành được thay bằng hàng bông giấy lá nhỏ. Công việc xây cất được tiến hành từ đầu năm 1983, nghĩa là hơn một năm trước khi Trang thực sự hồi hương về lại Quảng Nam. Bấy giờ Trang lấy số tiền dành dụm để trao trước cho ông Hương Bảng mua vật liệu; nếu thiếu thì ông sẽ ứng giúp và đồng ý để Trang thanh toán sau khi bán được căn nhà ở đường Trần Quang Diệu.

 

Trong khi họ xây nhà thì bên kia đường cũng có những tốp thợ thu dọn khu đất bỏ hoang có lẽ cũng để làm nhà. Người chủ không biết từ đâu đến. Về sau ông Hương Bảng biết được rằng đó là ông Thủ Huệ trước cũng thuộc làng Đông Yên, tản cư lưu lạc nhiều nơi và nay hồi hương. Nhưng khu đất đó trước đây không phải của ông mà của người em ruột của ông đã chết cùng với vợ và hai con trong chiến tranh. Khu vực nhà ông trước năm 1945 là một thôn hẽo lánh sâu trong làng và nay đã trở nên quá tiêu điều và hoang vắng không thể trở về đó được nữa.

 

Khi Trang thực sự hồi hương vào giữa năm 1984 thì cảnh trí đã khác hẳn so với bốn năm trước khi Trang về lần đầu. Nhà của Trang đã xây xong. Bên kia đường, vùng đất cỏ hoang nay đã trở thành những ruộng lúa và bắp. Giữa đám bắp xanh tươi kia là một ngôi nhà ngói đỏ. Nhìn từ xa Trang không rõ đó là một ngôi nhà ở hay hay nhà thờ tộc, vì nó trông quá ư qui mô và uy nghi. Con đường trước nhà nay đã được tráng xi măng, tương đối rộng rãi hơn trước. Dọc theo lề đường phía đối diện với nhà Trang là một con kênh nhỏ để dẫn thủy với dòng nước trong khe đang nhẹ nhàng thanh thoát chảy phản chiếu mấy cụm sầu đông xanh tươi mơn mởn trong nắng hè. Bên kia những thửa ruộng lúa là hàng keo già, một khóm bạc hà khá cao, và một vài khóm trúc; Trang không rõ hàng keo, khóm bạc hà và những khóm trúc kia là di sản để lại từ trước chiến tranh hay mới có sau nầy. Trang chỉ biết chắc hàng sầu đông là mới có đây thôi. Một số vết tích đáng nhớ đã bị xóa sạch, như khu nhà ông Hương Mua nằm cạnh cội đa già ngày trước. Thay vào đó bây giờ cũng là một thửa ruộng lúa; và chủ ruộng lúa đó có thể không có một liên quan gì với ông Hương Mua hay gia đình của ông. Trang có hỏi thăm ông Hương Bảng về tung tích của ông và gia đình ông ấy nhưng chính ông Hương Bảng cũng không rõ.

 

Trở lại căn nhà mới xây xong của Trang. Dậu chè tàu thấp bé ngày nào nay đã cao bằng bức tường gạch lốc, che khuất nó nếu nhìn từ bên ngoài. Khu vườn nay đã nhận vào một thế hệ mới của hầu hết những loài cây đã từng có mặt ở đó trước chiến tranh trong khi một thế hệ mới sẽ không bao giờ xuất hiện đối với những người đã từng sống ở đó trước kia.  Khu vườn bây giờ tỏ ra dứt khoát là quá bao la đối với nàng, càng tô đậm nét nỗi cô đơn và vong thân của nàng. Bấy giờ là cuối hạ; và những chùm bông giấy đỏ tím ở sân trước dường như muốn nhắc nàng rằng đó là một cuộc đời mới, một thế giới mới, một khởi đầu mới, và một biến trạng mới. Ngoại trừ ông Hương Bảng và ba người con của ông, tất cả hình như đã bỏ rơi nàng. Làng mạc yêu dấu một thời nay cũng thành xa lạ. Khu vườn nầy và gian nhà nầy không còn khả năng đưa nàng về dĩ vãng một thời, về vùng trời với tất cả hạnh phúc, tình yêu, và hoài vọng. Chiến tranh đã đi qua sao ngày vui không đến. Quê hương trở về nhưng sao nỗi nhớ vẫn khôn nguôi. Không gian bây giờ dường như quá rộng và đồng thời lại dường như quá hẹp đối với một hiện hữu hoàn toàn phân cực như của nàng. Hiện tại càng lúc càng trở nên vô nghĩa. Thời gian của ngày càng lúc càng thu ngắn; và đêm lại lùi xa hơn để rồi chấm dứt sớm hơn. Chỉ có khoảng chuyển tiếp giữa ngày và đêm là càng lúc càng trở nên bất tận. Đó là khoảng chuyển tiếp của một hoàng hôn tranh tối tranh sáng lấp đầy với tiếng ve sầu rã rích trong khu vườn chìm trong hoài niệm. Đó là khoảng chuyển tiếp của những tiếng còi tàu xuôi ngược ở Chiêm Sơn, của những áng mây xám mịt bồng bềnh trên Non Trượt, tiếng gió chiều vi vu trên mấy rặng bạc hà, tiếng nước róc rách của con kênh ven đường như giai điệu vô ưu của vũ trụ vô ưu. Thế giới bỗng nhiên không còn bóng dáng con người, âm thầm hơn với một loài ngôn ngữ mà nàng không thể hiểu được. Dường như có một đoạn tuyệt siêu hình trong tâm thức nàng, khi ngủ cũng như khi thức.

 

Trang không rõ nàng đã về lại Quảng Nam bao nhiêu năm rồi, vì càng lúc nàng càng mất đi khái niệm về ngày tháng, về ngày đêm và về bốn mùa đi qua trong năm. Một thực thể duy nhất hiện hữu với nàng là buổi hoàng hôn bất tận, trong đó không có ánh mặt trời, không có ngày và đêm, và không có ngôn ngữ của con người; còn lại với buổi hoàng hôn bất tận đó là tiếng ve kêu và tiếng còi tàu, nhưng tiếng còi tàu bây giờ dường như không đến từ Chiêm Sơn và tiếng ve kêu dường như không đến từ trong vườn mà có lẽ như đến từ một biên thùy không gian thăm thẳm nào đó. Chính buổi hoàng hôn bất tận đó đã càng lúc càng đưa nàng gần hơn với Sỹ và Lộc.

 

Trong cõi tranh sáng tranh tối đó, Trang nhận được tin chồng. Thư đề ngày 15 tháng 7 năm 1952, nghĩa là đúng hai năm sau ngày Sỹ ra đi. Ngày tháng ghi trên đầu thư khiến Trang nghĩ rằng đó là lá thư từ quá khứ. Thư rằng:

 

"Ngày 15 tháng 7 năm 1952

 

Em và con yêu dấu,

Anh chỉ ghi ngày tháng theo lịch của hành tinh anh đang đi và không rõ ngày tháng đó có trùng hợp với thời gian trên trái đất mà em và con đang sống hay không. Có điều chắc chắn là hiện tại mà anh đang sống và viết thư cho em cũng chính là hiện tại của thế giới mà em và con đang sống, nếu có khác thì đó chỉ là hai khung qui chiếu về niên đại mà thôi. Đừng nghĩ rằng thư nầy đã mất thời gian tính khi đến tay em. Thư đi theo vận tốc gần tương đương với vận tốc ánh sáng nên không bao giờ mất gian tính.  Ở đây là 1952, nhưng trong thế giới của em không hẳn là thế, có thể mười năm hay năm mươi năm nhiều hơn, chẳng hạn. Điều đó có nghĩa là anh đã du hành xa hơn vào tương lai của em trong khi đó, trong khung qui chiếu của em, anh đang nán lại trong quá khứ của em. Em nên nhớ là anh không thể du hành về quá khứ được. Từ khi xa em và con anh đã sống hai năm trong khung thời gian mới, nghĩa là anh vẫn như ngày nào còn ở bên em và con; nhưng biết đâu em và con nay đã già và có thể không còn có mặt trên đời…"

 

Đọc đến đây, Trang như lần đầu tiên ý thức về tuổi tác của mình. Có thể Sỹ chỉ mới hơn ba mươi, gần xấp xỉ tuổi của Lộc khi nó ra đi năm 1967! Chỉ hai năm trong thế giới của Sỹ thôi mà biết nhiêu vật đổi sao dời trên trái đất nầy!

 

"… Xin em thứ lỗi cho anh nếu điều đó khiến em đau lòng. Dù em còn sống hay đã chết, dù em có già đi hay còn trẻ thì em vẫn là em của anh; em vẫn là nàng tiên áo lụa thuở dâu tằm của Sông Thu, Núi Chúa; em vẫn là người thiếu phụ gieo neo của bao nhiêu năm du cư khắp hang sơn cùng cốc, núi cấm, hết đèo cao đến thung lũng thâm u, đói khổ cơ hàn, dìu hiện hữu theo bom đạn ngày đêm. Dù em mất hay còn thì chúng ta vẫn là bất diệt theo nghĩa là chúng ta thuộc về hai thế giới không bao giờ giao thoa với nhau và chẳng bao giờ nhìn thấy kết liễu của nhau và… chẳng bao giờ quan tâm đến chuyện già hay trẻ, mất hay còn…"

 

Như thế, Trang thầm nghĩ, dù có đi cùng trời cuối đất hay kéo dài sự sống trên trái đất nầy vô tận đi nữa thì cũng chẳng bao giờ gặp lại chồng con. Tất cả đều đang ở trong những vụ trụ song song, hay đúng hơn những vũ trụ càng lúc càng phân ly về vô tận. Nhưng biết đâu đó chính là hạnh phúc của những người đi săn mặt trời. Nhưng bây giờ Sỹ thực sự đang ở đâu trong cái vũ trụ ba la nầy? Trang đọc tiếp:

 

"…Anh đã thực sự rời bỏ Thái Dương Hệ, rời bỏ cái mặt trời mỗi sáng mọc ở phương đông và mỗi chiều lặn ở phương tây, loại mặt trời vẫn đồng lỏa với lũ tội đồ có lẽ đang ngự trị trên trái đất của em trong thế giới của loài cừu lẫn thế giới của loài người. Mặt trời mà anh đang đi tìm chưa thấy có, nhưng ít ra anh đã xa lánh được loại mặt trời mà anh không muốn nhìn thấy ngày ngày. Thế giới anh sống bây giờ không có ngày và đêm mà chỉ có một loại thời gian liên tục với một loại ánh sáng liên tục…"

 

Thì đấy không khác mấy với khoản thời gian nhá nhem đang kéo dài bất tận đối với Trang bây giới trên trái đất nầy. Và Sỹ sẽ đi đến bao giờ mới dừng lại? Đi về vô tận? Chẳng lẽ cứu cánh của những người đi săn mặt trời là những biên thùy không gian vô định, trong khi chính không gian vô định đó lại mỗi ngày một trương nở không biết đến bao giờ? Trang đọc tiếp.

 

"…Từ ngày chia tay Bài, chồng của Oanh, chúng anh mỗi người đi một hướng và từ đó đến nay không có tin tức gì về nhau cả. Nếu Oanh và em có được tin tức gì về Bài thì em sớm cho anh biết. Nhớ viết cho anh thật dài để anh đỡ nhớ em và con. Viết thư xong em hãy thân hành đi thuyền theo Sông Thu Bồn từ Duy Xuyên lên thượng nguồn ở Nông Sơn để đến Hòn Kẽm Đá Dừng. Em cố leo lên sườn phía tây của ngọn núi phía tây, lên cao được chừng nào hay chừng ấy. Nhớ lên đó vào một ngày nắng ấm và đốt thư để cho tro bay cùng với nắng và gió của Hòn Kẽm Đá Dừng. Anh sẽ nhận được tin em.

Hãy nói với con là anh nhớ nó lắm.

Yêu em nhiều và mong tin em…

 

Sỹ."

 

Trang không viết thư ngay theo lời Sỹ nói vì đầu óc nàng cứ tiếp tục quay cuồng trong suy tư và dằn vặt. Tiếng ve sầu vẫn tiếp tục rã rích ngoài vườn; tiếng còi tàu vẫn đều đặn vọng về từ cầu Chiêm Sơn. Đôi khi Trang tưởng tượng còn nghe được tiếng sóng vỗ của dòng Sông Thu Bồn trong giấc ngủ. Nàng sẽ viết gì đây? Không phải thiếu ý để viết mà chính là có quá nhiều điều muốn viết không biết phải chọn cái gì đây. Bốn tiếng Hòn Kẽm Đá Dừng bỗng nhiên bừng dậy trong tâm thức nàng như một vũ trụ trong thần thoại, uy linh và hùng vỹ. Trong lần về thăm quê vào năm 1980, Trang cùng một số bạn bè đã lên Nông Sơn và đi thuyền vào Hòn Kẽm Đá Dừng để được chứng kiến hai vị thần linh do trời đất dựng lên để che chở người dân xứ Quảng trước dòng thác hung hãn đổ về từ đỉnh Ngọc Linh, dãy Trường Sơn, ầm ào chảy xiết, như lưỡi gươm thần chẻ đá, tạo đường cho nước đổ tuôn trào vào sông Thu Bồn, xuôi về Cửa Đại, hòa cùng biển Đông. Sỹ chắc chắn đã nhiều lần đến Hòn Kẽm Đá Dừng trong thời gian trước chiến tranh và đã từng ngưỡng mộ không gian thần thoại đó nên chàng mới tha thiết đến như thế. Nhưng khi lên viếng cảnh Hòn Kẽm Đá Dừng vào năm 1980, Trang chỉ đi như một du khách bình thường, với phương tiện di chuyển mà đa số du khách xử dụng, không theo một lộ trình cá nhân đặc biệt nào. Những phương tiện và lộ trình phổ thông bao giờ cũng an toàn và hữu hiệu hơn. Nếu đi theo lộ trình như Sỹ nói trong thư thì dứt khoát phải nhiều rủi ro và thách thức, nhất là lộ trình đó hoàn toàn xa lạ đối với Trang. Tuy nhiên, Trang nghĩ mình sẽ làm được, đơn thuần vì đó là lời căn dặn từ một vũ trụ xa xăm bên ngoài thế giới mà nàng đang sống. Vũ trụ đó bây giờ là một phần nối dài cho thân phận của nàng.

 

Cuối cùng Trang ngồi vao bàn và viết thư cho Sỹ.

 

"Duy Xuyên, ngày 15 tháng 7 năm 2000

 

Anh yêu dấu,

Ngày và tháng mà em ghi trên đầu thư là lấy theo ngày và  tháng trong thư của anh, vì bây giờ em dường như mất hết khái niệm về ngày tháng rồi. Chỉ có năm 2000 là em tự đoán ra dựa theo linh cảm, nghĩa là chúng ta có thể đang cách nhau khoảng sáu mươi năm so với năm 1952 mà anh ghi trong thư. Trong buổi hoàng hôn bất tận mà em đang sống, em linh cảm trái đất đã bước vào thiên kỷ mới, và có thể từ lâu rồi. Như thế em thực sự đã già hơn anh khoảng sáu mươi tuổi! Rất may là em đang còn sống trên trái đất nầy, ít nhất là sống theo nghĩa là không bao giờ chết như anh nói trong thư.

 

Hôm nay là ngày hạnh phúc nhất đời em vì lần đầu nhận được tin anh sau gần sáu mươi năm. Em đã đọc lại từng chữ từng lời anh nói, tưởng tượng như nghe được hơi thở nồng ấm của anh ngày nào, tưởng tượng như thấy lại được những cánh đồng lúa ươm vàng cuối hạ khi hai chúng ta mới biết hẹn hò, với mùi hương hoa sứ, mùi ngọc lan trong chiều và mùi dạ lý trong đêm. Em nhớ đến những chiều hai đứa bơi thuyền dọc bãi dâu xanh trên nhánh sông con chảy về từ dòng sông cái Thu Bồn, nhớ những đêm trăng sáng trên đình làng thơm lừng mùi hoa bưởi, hoa cau... Cám ơn anh đã cho em được sống lại những chuỗi ngày thần tiên đó.

 

Sau khi anh đi được bốn năm thì chiến tranh kết thúc. Đất nước bị chia cắt làm đôi; từ vĩ tuyến mười bảy trở vào là chế độ Quốc Gia; bên Miền Bắc là chế độ cộng sản. Em và con đã vào Sài Gòn sinh sống, gặp lại được anh Bình của em ở Trảng Bàng, gặp lại được Quí, người em họ của anh. Nhờ Quí giới thiệu nên em kiếm được một chân bán thuốc tây ở một pharmacy trên đường Trương Minh Giảng. Lộc, con của chúng ta, tốt nghiệp đại học khoa học Sài gòn năm 1966 và ra đi vào năm 1967, đúng mười bảy năm sau khi anh ra đi. Từ đó đến nay em không có tin tức gì của nó cả. Tin tức về Bài, Oanh, và Dũng cũng không có.

 

Không bao lâu sau ngày Đình Chiến thì chiến tranh lại bắt đầu trở lại giữa một bên là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Bắc Việt và bên kia là chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ. Tháng tư năm 1975, Mỹ thua bỏ chạy và Miền Nam rơi vào tay Cộng Sản Bắc Việt. Nhiều người Sài Gòn lên máy bay chạy ra nước ngoài trước ngày 30 tháng tư. Hàng triệu người khác đã bỏ xứ ra đi bằng đường biển, bỏ lại sự sản và cơ ngơi. Sự sản và cơ ngơi đó dù không muốn bỏ đi thì cũng bị những người chiếm đóng cướp đoạt dưới hình thức nầy hay hình thức khác. Trong số những người vượt biển, số đến được bến bờ tự do thì ít, số chết trên biển và chết vì hải tặc thì nhiều. Số viên chức và sỹ quan chế độ cũ còn kẹt lại phần lớn đều bị đi tù; gia đình của họ thì bị đày đi kinh tế mới để chúng cướp nhà. Một lần nữa em lại tiếp tục sống với chế độ cộng sản như chúng ta đã từng sống với chúng trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp. Nhưng bây giờ thì tình trạng tồi tệ hơn nhiều vì đám thắng trận không ngần ngại để lộ nguyên hình bản năng chính trị hạ cấp của họ. Em còn nhớ có lần anh nói rằng con người càng mạnh thì càng ác. Đúng, bây giờ, một khi gồm thu giang sơn về một mối rồi thì họ mạnh lắm, do đó họ rất ác độc và quỉ quyệt, cái ác độc và quỉ quyệt của những đạo quân vô học, thiếu văn hóa, chẳng khác gì đám hung nô xâm lăng những kinh thành văn minh. Họ vơ vét Miền Nam rồi mang về Bắc trong khi vẫn luôn mồm rêu rao rằng Miền Nam là cặn bả của Đế Quốc Mỹ. Trung thực mà nói, không có những trò cướp bóc hay hôi của theo nghĩa cổ truyền. Ngược lại, họ tiến hành vô số những cướp bóc trên qui mô lớn, tinh vi, và có hệ thống, tàn nhẫn và đẫm máu hơn nhiều qua luật rừng của họ. Những người giàu có ở Miền Nam bị họ chụp cho cái mủ tư sản và sau đó bị trấn lột qua các đợt kiểm kê đột xuất và đổi tiền không thông báo trước. Đợt đổi tiền thứ nhất vào ngày 6/6/1975, lần hai ngày 2/2/1978, và lần ba ngày 14/9/1985. Các kế hoạch đổi tiền được tuyệt đối giữ bí mật cho đến giờ chót và chỉ tiến hành chớp nhoáng trong vòng không quá một ngày. Tỉ lệ giữa đồng tiền cũ và mới là từ 10 đến 500 lần nhỏ hơn tùy theo từng đợt. Số tiền được đổi bị hạn chế tối đa tùy theo đối tượng. Do những hạn chế khắt khe về số lượng và thời gian, những người có tiền của ở Miền Nam bị cướp sạch hết lần nầy đến lần khác, vì họ chỉ đổi được một khoảng tiền rất nhỏ còn bao nhiêu thì giao cho trời, không dám hở môi than oán sợ phải bị đi tù. Các đợt kiểm kê thực chất là xét tư gia để cướp tiền của một cách hợp pháp. Những người phụ trách công tác kiểm kê được chia thành từng nhóm và đánh phủ đầu các mục tiêu định cướp. Họ đóng chốt ở các tư gia ít nhất là ba ngày đêm liền, nội bất xuất ngoại bất nhập trong thời gian đó. Họ chia nhau lùng sục trong nhà để tìm tiền bạc, nữ trang, và nhất là vàng. Trước khi rút đi và mang theo chiến lợi phẩm họ cũng lập biên bản cho nạn nhân ký vào với những món họ mang đi. Riêng vàng thì họ ghi trong biên bản là "kim loại màu vàng" chứ không để hẳn là "vàng." Nếu tài sản được tìm thấy không đáng kể thì không có hậu quả gì lớn, cùng lắm chỉ mất của thôi; ngược lại nếu vàng bạc châu báu nhiều thì khổ chủ bị đưa đi tù ngay, nhà bị lấy ngay lập tức.

 

Anh ạ, biến cố tháng tư 1975 thực sự là hiện tượng đổi đời triệt để, về mặt vật lý, triết học, đạo đức,  và ngôn ngữ. Ác nay được gọi là thiện, xấu nay là tốt, cuồng tín hung nô được mệnh danh là đỉnh cao trí tuệ, ăn cướp đánh giật được gọi giải phóng, cải tạo, kiểm kê, đổi tiền; thái thú được gọi đảng tiên phong, trại tù được gọi là trại cải tạo, vùng lưu đày được gọi là vùng kinh tế mới, xâm lăng được gọi là cách mạng, chủ nghĩa côn đồ được mệnh danh là chủ nghĩa xã hội, buôn bán nô lệ được gọi là xuất khẩu lao động, buôn bán mãi dâm được gọi là hôn nhân nước ngoài.

 

Đạo quân chiếm đóng đã từng bước thay những nhà tư sản Miền Nam bằng giai cấp tư bản đỏ đầy ắp tiền của và tài sản trong nước và ngoài nước nhờ vào thế lực chính trị, bóc lột lao động, tham ô móc ngoặc và đánh cắp của công. Hố chênh lệch giữa giai cấp lãnh đạo giàu sụ và đa số dân nghèo ngày nay đã quá rộng và quá sâu. Bất công xã hội đã trở thành mãn tính.

 

Đây có thể là xu thế chung của nhân loại ngày nay trên trái đất vì các quốc gia độc tài bây giờ không còn bị ngăn chặn như trước kia khi mà Tây Phương còn mạnh. Âu Châu đã thực sự suy nhược về kinh tế, tài chánh, xã hội, và cả quân sự, chờ ngày phá sản. Đế quốc Anh đã tan rã. Kể từ sau Chiến Tranh Việt Nam, Hoa Kỳ từng bước đi xuống và lâm vào cảnh nợ nần không thể thanh toán được nữa; chính sách cai trị từng bước đi vào chủ nghĩa độc tài mềm; guồng máy quan liêu càng lúc càng trở nên cồng kềnh, tốn kém, béo phì không thể chửa trị được nữa; khoảng một phần trăm thuộc các tập đoàn tài phiệt thì rất giàu có còn đa số còn lại, mặc dù hãy còn sung túc và hạnh phúc hơn nhiều so với đám dân đen trong các xã hội toàn trị, nhưng tựu trung cũng chỉ là những giai cấp ăn theo và bằng lòng tuân thủ sự cai trị của đám đầu sỏ đang nắm đầu dây xích. Các định chế chính trị và đại học Mỹ ngày nay mang đầy đủ sắc thái của một nền văn minh nô tì, làm thuê để trả nợ. Giấc mơ của những người lập quốc dường như đã vĩnh viễn đi theo họ, nhường chỗ cho một sản phẩm tư tưởng duy lợi thiển cận và thấp kém của đám con buôn tham lam vô độ. Với giai cấp nầy Hoa Kỳ không phải là quê hương của họ mà chỉ là vùng tạm cư để làm giàu, sau đó sẽ bỏ đi và để lại đủ mọi thứ rác rưởi và những nạn nhân mãn tính của họ. Nếu đồng tiền làm mờ mắt lương tri thì chủ nghĩa duy lợi cũng thế. Nếu đồng tiền làm mờ mắt lương tri thì nó cũng làm mờ trí khôn quốc gia của Mỹ. Điều được mệnh danh là quyền lợi quốc gia đã bôi đen thần tượng Hoa Kỳ và thu nhỏ vai trò của Mỹ trên trường quốc tế. Chủ nghĩa lái buôn tham lam phần lớn là nguyên nhân đưa đến sự khánh tận cận kề của một cựu siêu cường. Con đại bàng Mỹ đã gần như hạ cánh vì không gian ngày nay tỏ ra quá nhỏ đối với đôi cánh của nó. Chính giai cấp lái buôn khuyển nho nầy đã giết chết nền cộng hòa Miền Nam và đã đưa Việt Nam vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ năm với đám thái thú mới mệnh danh là Đảng Cộng Sản Việt Nam.   

 

Vâng, em xin lặp lại rằng họ vơ vét Miền Nam, phần hưởng thụ tại chỗ, phần mang về Bắc trong khi vẫn luôn mồm rêu rao rằng Miền Nam là cặn bả của Đế Quốc Mỹ. Mỉa mai thay, ngày nay họ và con cháu họ đua nhau chạy theo Mỹ để làm ăn, học hành, và rửa tiền. Nói chung hầu hết các cơ sở làm ăn do những người từ Việt Nam xây dựng tại Mỹ và những học bổng dành cho những sinh viên đến từ Việt Nam thường phục vụ như những bình phong để tẩu tán những tiền của bất chính của giai cấp chóp bu. Bắng mọi giá họ tìm cách để con cháu họ trở thành thường trú nhân ở Mỹ, khỏi bị đuổi về nước sau khi mãn hạn, thoát ly khỏi cái mệnh danh là quê hương xã hội chủ nghĩa của họ. Với thành phần lãnh đạo và đám ăn theo hiện nay, Việt Nam chỉ là vùng tạm dung để vơ vét làm giàu chờ ngày cuốn gói ra đi. Riêng vấn đề học hành, thì họ và con cháu họ thực sự nhờ vào chút chữ nghĩa kiếm được từ đám tư bản Phương Tây mà từng bước xóa đi nguồn cội hung nô của họ, hay đúng hơn là từng bước để cho chủ nghĩa tư bản giải phóng họ ra khỏi sự u mê tăm tối cố hữu, ra khỏi sự kiêu căng lố bịch, ngoan cố, và không tưởng. Người Mỹ tỏ ra sốt sắng và thích thú hợp tác để một mặt cố chứng tỏ cho thế giới ai thắng ai và mặt khác tạo điều kiện cho đám tài phiệt làm giàu đồng thời khiến cho Việt nam càng lúc càng bị xuất huyết trong khi dân tộc mình vẫn còn nằm trong tình trạng đói nghèo, bất chấp sự giàu sang phú quí phi nghĩa và quá mức của tập đoàn lãnh đạo và đám nô tì ăn theo.

 

Anh và nhất là con thừa hiểu rằng em không thuộc những người mệnh danh chống cộng đâu, đơn giản là vì những người đó nếu có thì cũng không có ở đây mà chỉ có ở nước ngoài. Và nếu họ ở nước ngoài thì giữa họ và em không có những tương đồng đáng kể. Vã lại lịch sử đã quay lưng với họ, người Mỹ đã quay lưng với họ, và chính giới lãnh đạo của họ đã đâm sau lưng họ. Trang sử của họ đã được lật qua rồi. Còn chăng nơi họ là chút hoài niệm và thương tiếc quê hương, ngoài một số nghĩa cử mang tính biểu tượng để xoa dịu lương tâm của người bỏ chạy. Nếu có một hi vọng nào đó thì may ra chỉ có những người chấp nhận ở lại trong nước và không chấp nhận khoác chiếc áo lông cừu, dù chỉ là loại lông cừu vàng. Em đã nhìn thấy những Việt kiều về đây như những kẻ mặc áo gấm về làng, huyênh hoang hưởng thụ, khoe khoang tiền của và ăn mặc. Thậm chí có những người chỉ làm bồi bàn rửa chén, lượm lon ở nước ngoài nhưng khi về đây vẫn có thể đóng vai ông hoàng bà chúa. Trong số đó chắc cũng có những người mệnh danh chống cộng hay ít nhất khi ra đi họ từng tự xưng là vì lý do chính trị. Cũng có những nhân vật tai to mặt lớn hay văn nghệ sỹ tầm vóc thời chế độ cũ, vì đồng tiền hay danh tiếng, trở về không những chỉ thế mà còn nghênh ngang tuyên bố phản bội chính mình và phản bội chế độ mà mình đã một thời phục vụ. Họ ra đi với lý do là không chấp nhận chế độ cộng sản; đồng ý; nhưng giả sử chế độ cộng sản không còn tồn tại nữa trên đất nước nầy thí liệu có bao nhiêu người trong số họ sẽ tự nguyện và vui sướng trở về sống chết với quê hương?

 

Sau khi nhận ra không thể thắng được Chiến Tranh Việt Nam, Mỹ nghĩ cách bắt tay với Trung Quốc để làm giàu vì nhìn thấy cái thị trường béo bở của nước Tàu lạc hậu. Muốn được thế, Mỹ không những bỏ rơi Miền Nam mà còn âm thầm bán đứng Quần Đảo Hoàng Sa của chúng ta cho Tàu, dùng B52 không khích ồ ạt Miền Bắc để buộc Đảng Cộng Sản Việt Nam quì gối mà ký vào những mật ước nhượng đất nhượng biển cho Bắc Kinh. Từ đó Bắc Bộ Phủ đã chính thức là tập đoàn thái thú của Tàu. Năm 1979, khi đám thân Nga còn mạnh, Cộng Sản Việt Nam đã có lần nỗi loạn với quan thầy phương bắc đưa đến cuộc xâm lăng ngắn ngày của Tàu và những năm đó; nhưng khi khối Liên Xô tan rã, đâu lại vào đấy và Tàu một lần nữa lại tròng cái xích bắc thuộc vào cổ Đảng Cộng Sản Việt Nam.

 

Vào thập niên 60, người Mỹ đổ quân vào Miền Nam với danh nghĩa là những chiến sỹ bảo vệ tự do, chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Khi thua cuộc bỏ chạy họ không những cấu kết làm ăn với những quốc gia cộng sản độc tài khét tiếng mà còn ra sức ve vãn, bảo vệ và nuôi dưởng chúng. Các ngoại trưởng, đại sứ, và tổng lãnh sự của Mỹ từng bước trở thành những con gấu trúc co ro nhút nhát trên trường quốc tế. Miệng vẫn tiếp tục những lời cường điệu ba hoa nhưng khi hành động thì cứ liếc nhìn bên phải, bên trái, và nhìn về phía sau; không bao giờ dám nhìn thẳng về phía trước. Thậm chí có nhiều chính trị gia hàng đầu trong các ngành hành pháp, lập pháp, truyền thông và đại học Mỹ còn công khai ra mặt sợ cộng và nịnh cộng, quên đi biểu tượng đại bàng của một siêu cường mà các nhà lập quốc đã lưu lại trong Tòa Bạch Ốc. Giai cấp bồi bút thiên cộng ở Mỹ đang sinh sôi nầy nở để kiếm ăn vì nhòm vào túi tiền bất chính của đám tư bản đỏ và con cháu của họ. Trong khi đó người dân Mỹ bắt đầu mắc bệnh thờ ơ như ở các xứ cộng sản, có lẽ vì tác hại của chủ nghĩa độc tài mềm. Điều nầy cũng dễ hiểu, vì chính sách cai trị thực sự nằm trong tay của hệ thống siêu quyền lực ẩn danh và đám nầy đi theo chủ nghĩa duy lợi, không quan tâm đến biên giới quốc gia, chủ nghĩa, hay phẩm chất chính trị. Thế giới quan của hệ thống nầy và thế giới quan cộng sản gặp nhau ở điểm nầy, và đó là điềm gỡ báo trước sự cáo chung của nhân loại, đi đầu là Mỹ và các quốc gia Tây Phương.

 

Sau năm 1975, em tiếp tục sống ở Sài Gòn cho đến năm 1984 và chính thức hồi hương về Duy Xuyên năm đó. Cậu Hương Bảng và mấy người con trai của cậu ấy đã giúp em xây lại một căn nhà nhỏ ngay trên nền nhà cũ của cha mẹ anh ở Đông Yên, tức là nơi chúng ta từng chung sống trước chiến tranh. Khi dọn về đây, em đã lập lại đầy đủ những bàn thờ cho ông bà nội và ông bà ngoại của Lộc; nhưng em không lập bàn thờ cho anh và con, vì trong hồn em, anh và con vẫn vĩnh viễn còn sống, đâu đó trong vũ trụ bao la huyền bí nầy, trong một hoặc nhiều chiều không gian bất khả tri nào đó. Vã lại, như anh nói, nếu thực sự chúng ta đang ở trong những vũ trụ song song thì chúng ta đều bất diệt.

 

Sau khi trải nghiệm hai cuộc chiến tranh liên tiếp, em mới thấy rằng anh đúng. Bọn tội đồ ngày nay có mặt khắp nơi và thế giới càng ngày càng có nhiều bạo chúa và nhiều hệ thống lừa đảo được luật pháp con người chính thức che chở. Nhân loại dường như không còn lùi lại được nữa nên cứ phải nhắm mắt đi về điểm hẹn với định mệnh. Tương tự như số phận của các vì sao, hành tinh chúng ta sắp đến ngày tận thế; nhưng em ngại rằng chính con người sẽ tự hủy diệt mình trước khi ngày tận thế đó xảy ra.

 

Em đang sống trong thế giới của loài cừu tạp sắc và không rõ mình đang mặc sắc lông gì và cũng không rõ ngày nào sẽ bị đưa vào lò sát sinh như nhiều con cừu đáng thương khác. Dù chúng không bị đưa vào lò sát sinh thì cuối cùng linh hồn của chúng cũng bị cướp đi trong thế giới âm u của những rào cản mênh mông vô hình. Xã hội bây giờ chỉ có giai cấp bọn lừa áo đỏ và đám nô tì có bộ lông cừu vàng là sung sướng nhởn nha. Chúng và con cháu của chúng đang ngày đêm đục khoét xã hội để truy hoan và cung phụng đám tài phiệt bên ngoài. Đó là các tập đoàn tội phạm được luật pháp bảo vệ và được sự đồng lỏa của các hệ thống chính trị khuyển nho Phương Tây, những đế quốc đã và đang tan rã. Những đế quốc trong thời kỳ quá độ nầy đang biến văn minh nhân loại thành những nền văn minh nô tì, làm thuê trả nợ cho các hệ thống độc tài hung hãn nhưng giàu có trên trái đất trong khi miệng vẫn ba hoa hô hào giá trị và lý tưởng về tự do, dân chủ, và nhân quyền. Về phương diện vật chất phần lớn nhân loại hiện chưa đủ nghèo để làm thành giai cấp vô sản, nhưng ngày đó không còn xa, vì hiện nay hố ngăn cách giữa giai cấp thống trị và bị trị đã quá rộng và quá sâu rồi. Nhưng dù chưa thực sự trở thành vô sản về mặt vật lý thì phần lớn xã hội loài cừu của chúng em đã thực sự vô sản về mặt tinh thần và tri thức rồi. Chính hiện tượng vong thân triệt để đó đã đưa em về lại quê hương để nhẹ bớt mùi hôi của xã hội loài cừu và bớt nhìn thấy những vũ điệu tế thần được trình diễn hằng ngày nhằm giúp loài cừu quên đi nguồn cội làm người của chúng, quên đi khát vọng và ngày mai, quên đi chính thận phận của chúng.

 

Khi thư nầy viết xong, em sẽ làm theo lời anh dặn, sẽ đi thuyền theo sông Thu Bồn và đi từ quê hương Duy Xuyên của chúng ta, ngược dòng lên thượng nguồn để đến Nông Sơn và sau đó là Hòn Kẽm Đá Dừng. Em sẽ lên sườn phía tây của đỉnh núi phía tây vào một ngày nắng ấm, lên cao được chừng nào hay chừng đó, đến khi không còn lên được nữa thì dừng lại. Bấy giờ em sẽ đem thư nầy ra đọc lớn lần cuối rồi đốt cho tro bay vào nắng và gió của Hòn Kẽm Đá Dừng.

 

Anh nhớ hồi âm em càng sơm càng tốt. Cách tốt nhất là về với em trong giấc ngủ. Có anh em sẽ sống lại những ngày thần tiên nắng ấm khi mới quen nhau. Có anh em sẽ quên đi chuỗi ngày cô đơn lạnh giá nầy và quên đi những hoài vọng khôn nguôi. Có anh em sẽ tiếp tục sống sót buổi hoàng hôn bất tận hiện thời dù sau đó không biết sẽ đi về đâu, làm gì và kết liễu ở đâu, thế nào…

 

Anh hãy cố đi tìm con mình anh nhá. Đương nhiên, không đi tìm theo nghĩa vật lý như tìm nhau trên trái đất nầy mà đi tìm trong những chiều không gian song song như anh đã đi tìm em và gặp được em hôm nay. 

Mong anh và nhớ anh nhiều,


Xin tìm đọc toàn văn
THE SUN HUNTERS - NGƯỜI ĐI SĂN MẶT TRỜI - Đông Yên
Đã phát hành trên Amazon.com - (ISBN: 9781495808333)
Phiên bản bìa mềm có thể đặt mua với
(I) Đỉnh Sóng P.O. Box 8231 Fountain Valley, CA 92728 - (714) 473-3691 - dinh-song@att.net
(II) Nhà sách Tự Lực và các nhà sách VN tại Mỹ
Tu Luc Website: TULUC.COM
ĐT: (714) 531-5290 ** Email: buybooks@tuluc.com